Ngày 22 Tháng 05
Bức chân dung sống động.
Đứng trước bức tranh “NÀY LÀ NGƯỜI” (Ecce Homo), diễn tả Đức Giêsu sau cuộc tra tấn được Philatô đem trình diện dân chúng (Ga 19, 5), Thánh nữ Têrêsa thành Avila thuật lại như sau: “Bức tranh sống động trình bày Đức Giêsu mình đầy thương tích đó đã khiến tôi xúc động ngay khi vừa trông thấy. Tôi thấy mình run lên, vì cảm nhận được những đau khổ Chúa chịu vỉ chúng ta. Tim tôi như rạn nứt vì hối hận những bất trung của tôi đã đả thương ngài. Tôi liền quỳ xuống trước mặt Ngài, nước mắt đần đìa, xin Ngài ban chio tôi sức mạnh một lần cho trọn đời, để từ nay không bao giờ tôi làm phiền lòng Ngài nữa.”
Trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, bức tranh “NÀY LÀ NGƯỜI” đã được phác họa không phải trên vải, mà là nơi chân dung Quan Thái bộc Hồ Đình Hy mình đầy thương tích, bị dẫn qua khu chợ và quanh thành nội Huế ba ngày, lính mở đường đi trước rao tên và tội “Tả Đạo”. Bức chân dung ấy, thánh nhân đã nhận để biểu lộ lòng sám hối và đức tin của mình.
Là một trung thần
Micae Hồ Đình Hy sinh năm 1808 tại Nhu Lâm, tỉnh Thừa Thiên trong một gia đình quan chức. Cậu là con út trong số 12 anh chị em. Từ nhỏ, cậu đã theo học các thày đồ nho. Hình như cậu cũng biết đôi chút sinh ngữ Anh, Pháp. Khi ra làm việc, anh là một thơ lại bộ Công. Năm 20 tuổi, anh Hy kết hôn với cô Lucia Tân, sinh hạ được năm người con. Người con cả sau này đi tu, học tại Pénang, rồi sau thụ phong linh mục là cha Thịnh. Dần dần, vì ông Hy thực hiện tốt mọi công tác được giao, nên được thăng lên chức Tham tá, hàm Lục phẩm. Dưới triều vua Tự Đức, ông lên tới chức Thái bộc, hàm Tam phẩm, đặc trách ngành dệt tơ lụa vải vóc trong cả nước. Uy tín ông ngày càng lớn và được vua tín cẩn. Khi một số quan lại ghen tương, xin truất chức quan Hồ Đình Hy, vua Tự Đức trả lời: “Không thể truất nhiệm ông ta được, vì ông đã chu toàn trách nhiệm theo lương tâm. Trước đây chưa ai giữ chức ấy được hai năm cả. Cho đến nay, ta chưa có gì phải khiển trách ông ta. Có lẽ ta sẽ tăng lương cho xứng với việc của ông ấy nữa là khác”.
Dù làm quan dưới triều vua bách hại đạo, quan Thái bộc không ngại tỏ ra mình là người Công Giáo. Trong nhà, ông đạt bàn thờ Chúa nơi xứng đáng, thắp đèn trưng hoa mỗi ngày. Thế nhưng, khi giao dịch với giới quan lại, ông chịu ảnh hưởng nhiều tật xấu và xa ngã đôi phen: Ông quan hệ với một thiếu nữ trẻ, và sinh được ba người con ngoại hôn. Để chuộc lại lỗi lầm, ông đã rửa tội và đưa chúng về nuôi nấng tử tế như con chính thức của mình. Ông cố gắng làm nhiều việc thiện để đền bù tội lỗi xin Chúa thứ tha. Một hôm, ông tâm sự với bạn bè: “Tôi nghĩ dù có lấy nước của các con sông trên địa cầu, cũng không rửa sạch tội của tôi được. Có lẽ chỉ có thể rửa sạch chúng bằng chính máu của tôi thôi”.
Ở đây chúng ta có thể ôn lại một vài mẫu gương sống trong đời ông:
– Có một người bị tố cáo lấy trộm kho lẫm nhà vua. quan Thái bộc can thiệp xin vua Tự Đức ân xá. Người này đến xin tạ ơn vị cứu tinh, và đặt lên bàn một túi tiền lớn. Nhưng ông nói với anh ta rằng: “Cầm tiền và đi ngay, bằng không tôi sẽ giao anh cho công lý bây giờ”. Nhiều người nghe chuyện phải thốt lên: “Chưa bao giờ chúng tôi thấy ai tốt như thế”. Người được ân xá không ngờ mình đã chạm đến đức thanh liêm của vị ân nhân.
– Một người khác nghiện thuốc phiện bị bệnh trầm trọng, và được giới thiệu đến nhà quan Thái bộc. Quan tiếp đón bệnh nhân rất tận tình, thu xếp cho ở trong căn lều phía sau nhà. Rồi mỗi ngày trước khi tới nhiệm sở và khi về, quan Thái bộc đều ghé thăm hỏi và chăm sóc bệnh nhân. Khi có người trách, ông trả lời rằng: “Phải làm nhiều việc thiện để đền bù tội lỗi chúng ta. Mà đã làm thì đừng máy móc qua lần chiếu lệ, phải làm với thiện ý, có thể mới lập được nhiều công phúc”. Và ông cứ tiếp tục săn sóc suốt 15 ngày, cho đến khi người bệnh qua đời. Ông còn tổ chức lễ an táng một cách cẩn thận, chu đáo.
– Trong vùng có một người quá nghèo, nên bán hai bé gái cho một người ngọai giáo. Nghe biết chuyện, quan Hồ Đình Hy bỏ tiền ra chuộc lại hai cháu này đem về rửa tội, và nuôi nấng cho đến khi trưởng thành. Sau đó, với tất cả lòng quảng đại, ông đã đáp ứng theo như ý của hai cô: một người xin đi tu, một người lập gia đình.
Đức cha Pellerin Phan phụ trách giáo phận Đông Đàng Trong, tỏ ra tín nhiệm ông và trao cho ông trọng trách hỗ trợ các thày giảng ở tỉnh Thừa Thiên; sau đó lại ủy thác cho ông việc coi sóc tài sản và cơ sở truyền giáo trong giáo phận. Với trách vụ mới, ông đã quảng đại đóng góp nhiều tiền của, công sức cho Giáo Hội. Một lần kia, Đức cha đi thăm các giáo hữu, thuyền của Đức cha bị một thuyền khác tông vào. Chủ thuyền lạ này đòi bồi thường, ông Hy liền cởi chiếc áo quý ông đang mặc, trao cho người chủ thuyền đó, dù biết tai nạn này không do lỗi mình gây ra, nhưng vì ông muốn bảo đảm an toàn cho vị Giám mục.
Một lòng vì chúa
Cuối năm 1856, khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì quan Thái bộc Hồ Đình Hy bị bắt. Triều đình lấy cớ ông đã gửi con đi học ở Pénang, nghĩa là có giao thiệp với nước ngoài. Ông bị giam ngay tại Trấn phủ (Huế).
Vua Tự Đức ra lệnh cho quân lính bằng mọi cách bắt ông nhận tội, bắt bước qua Thập Giá và kê khai cac linh mục thừa sai hoặc linh mục Việt Nam, kể cả quân lính có đạo. Ông cương quyết không bỏ đạo, nhưng vì bị tra tấn quá đau đớn, ông lỡ lời nói tên một vài tín hữu. Thực ra, ông nghĩ rằng những người này đã trốn đi nơi khác, nào ngờ “bứt dây động rừng”, dựa vào lời ông, triều đình bắt được 29 người. Trong đó tám người xuất giáo, còn 21 người kia kiê trung với đức tin, dù bị khắc trên má chữ “Tả Đạo” và bị lưu đày. Ông cho rằng tất cả bị bắt là bởi mình, nên khóc lóc ân hận, xưng tội xin Chúa thứ tha và kiên quyết dùng chính máu mình để rửa sạch lỗi lầm đó.
Một lần chính vua Tự Đức xét xử và khuyên ông nghĩ lại ít là giả bộ bước qua Thập Giá. Ông thẳng thắn từ chối: “Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước và tôi trung. Hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô, đền bù tội lỗi và chết thánh thiện”.
Trở về ngục, ông nói với các bạn: ” Tôi thấy đời tôi sắp tận số rồi, chỉ mong sao giữ vững được đức tin đến giờ phút cuối đời”.
Để nên giống Thày Chí Thánh.
Ngày 30.4.1857, vua kết án quan Hồ Đình Hy: “Khinh luật nước, theo tả đạo, lại gởi con đi Tân Gia Ba thăm đạo trưởng Oai và bàn chuyện liên lạc với tàu Pháp. Rõ ràng là đứa hai lòng đáng chết nghìn lần. Ta truyền phải chém đầu làm gương”.
Vua còn ghi chi tiết phải xử thế nào: “Ta hạ lệnh cho năm quan triều đình và 15 binh sĩ dẫn y đi vòng quanh Thành Nội ba ngày. Khi đi ngang qua chợ và nơi công cộng, phải rao tội nó lên cho dân biết. Hơn nữa, tại mỗi ngã ba đường, ta truyền đành thêm 30 trượng. Sau ba ngày như thế thì chém đầu nó. Có thể bọn Gia Tô sẽ lấy làm tủi nhục mà lo sửa mình”.
Tháng 5 năm đó, vào những ngày 15, 18 và 21 quân lính đã thi hành lệnh vua: Dẫn quan Thái bộc qua các nẻo phố Huế, dừng lại đánh đòn ở hai nơi, tổng số 60 trượng mỗi ngày. Một người lính đi trước tuyên bố theo lệnh rằng: “Hồ Đình Hy, kẻ theo tà đạo đứa ngỗ nghịch bất hiếu với mẹ cha, chống lại luật lệ triều đình. Vì thế y bị kết án phải chết. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ được phúc Thiên Đàng. Điều đó đúng hay sai không ai biết. Giêsu của Hồ Đình Hy đâu rồi, sao thấy y khổ mà không đến cứu ?”
Như thế đó, quan Hồ Đình Hy, bức chân dung “NÀY LÀ NGƯỜI” Việt Nam bị lôi qua các đường phố cách thảm thương và tủi nhục. Nhưng quan Thái bộc vẫn kiên nhẫn cho đến cùng, không bỏ đạo. Sáng ngày 22.05, ông bị đưa ra pháp trường. Dân chúng tuôn đến xem rất đông. Dù lương hay giáo, họ bùi ngùi thương tiếc vị quan thanh liêm tốt bụng. Lúc qua cầu An Hòa, ông nói với lính rằng: “Đi xa làm chi, ở đây tôi có nhiều bạn hữu bà con”. Thế là thay vì đến cống Đốc Sơ, ông được xử ngay tại đó.
Vì là quan nổi tiếng, lính cũng đành cho ông chút đặc ân cuối cùng: Ông thong thả rửa chân tay, rồi ngồi xếp bằng trên chiếu, bình tĩnh hút hết một điếu thuốc. Sau đó đứng lên, thật bình thản sửa soạn lại đầu tóc y phục cho chỉnh tề, rồi sốt sắng qùy gối cầu nguyện. Hai linh mục Việt Nam ẩn trong đám đông ra dấu tha tội cho ông. Cuối cùng, ông đưa đầu cho lý hình thi hành phận sự. Nước trời đã mở sẵn cửa để đón linh hồn vị chứng nhân anh dũng.
Đức Thánh cha Piô X suy tôn quan Thái bộc Hồ Đình Hy lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Lm. Đào Trung Hiệu, OP