(Lễ Suy Tôn Thánh Giá)
Ngày xưa, thập giá là nhục hình ghê rợn nhất dành cho các tử tội. Chúa Giêsu cũng đã phải chịu nhục hình này vì người ta liệt Ngài vào dạng tương tự “dân anh chị khét tiếng” hoặc “tội phạm nguy hiểm”. Nhưng với Đức Kitô, thế cờ bị Ngài đảo ngược, chính thập-giá-khổ-đau đó lại trở thành “đòn bẩy”, là đường tới vinh quang, là lối vào ánh sáng, là vũ khí chiến thắng. Thập giá được Ngài biến thành biểu tượng cứu độ và là phương cách giải thoát. Một Saolê đã từng bách hại “tới bến” đối với những ai yêu mến Thánh Giá, nhưng nhờ cú ngã ngựa, bị mù mắt thể lý mà lại sáng mắt tâm linh, rồi trở thành một Phaolô “không giống ai” với niềm ước mong: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6:14). Việt ngữ thật kỳ diệu: THÁNH GIÁ là cái GIÁ để NÊN THÁNH. Đó là điều mà Đức Giêsu Kitô đã xác định: “Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi thì không xứng với Tôi, không thể làm môn đệ của Tôi” (Mt 10:38; Lc 14:27).
Hơn 1.600 năm sau, ĐGM Pièrre Lambert de la Motte (1624–1679, Hội Thừa Sai Pháp) cũng hóa thành “dị nhân”, không giống ai khi ngài quyết tâm chỉ yêu mến Thánh Giá mà thôi, bằng chứng là ngài đã lập Dòng Mến Thánh Giá tại Việt Nam – bắt đầu từ Hải Phòng (Bắc Việt). Xưa cũng như nay, bất cứ ai thích Thánh Giá đều bị coi là “ngược đời” hoặc “điên loạn”. Thế nhưng Đức Kitô đã khuyến cáo chúng ta phải “mình ên vác thập giá mà theo Ngài” (x. Mt 16:24). Thật là “căng” dữ nghen! Quả thật, phải thực sự tin tưởng và can đảm mới có thể bước trên Đường Thập Giá – liên lỉ từng giây phút chứ không chỉ trong thoáng chốc, trong vài ngày hoặc vài tháng.
Thập giá là dụng cụ để xử tử phạm nhân mà người Phênixi đã dùng trước tiên, sau đó người Rôma cũng dùng, nhưng chỉ dùng hình phạt này cho kẻ nô lệ, dân bị trị, những người thấp hèn và những kẻ phạm các tội nặng nhất như trộm cướp, ít khi áp dụng cho công dân Rôma. Về thập giá, nhà hùng biện trứ danh Cicéron (Rôma) đã mô tả là “cực hình ghê rợn và độc ác nhất” (crudelissimum et teterrimum supplicium).
Theo nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh, cây Thánh Giá được làm bằng gỗ tùng rất nặng, thanh dọc dài 4,5 m, thanh ngang dài 2,5 m, cả Thập Giá nặng khoảng 100 kg. Vác kéo lê thì giảm sức nặng khoảng 30 kg. Như vậy, Chúa Giêsu còn chịu sức nặng 70 kg đè trên thân xác đã yếu ớt vì đòn vọt, vác khệ nệ trên con đường dài 700 m, và Ngài đã phải ngã quỵ 3 lần. Thông thường, khoảng giữa thập giá có một miếng gỗ để tội nhân tì mông vào cho dễ đóng đinh, và đóng mỗi chân một đinh. Ngày nay các nhà kỹ thuật đã đưa miếng gỗ đó xuống làm đế đỡ chân và hai chân đóng chụm lại, đó vì tính mỹ thuật – tức là để nhìn cho “đẹp mắt” mà thôi.
Chúa Giêsu chịu hàm oan và đau khổ tột cùng trên Chặng Đàng Thánh Giá. Cuộc đời mỗi Kitô hữu cũng là Hành trình Thập Giá, có rất nhiều thứ xấu xa trong mỗi chúng ta để chúng ta phải cố gắng “chết” vì yêu mến Đức Kitô. Hành trình đó là hành trình tử đạo liên lỉ, rất cần ngước nhìn lên Chúa Giêsu bị treo trên Thánh Giá như dân Ít-ra-en xưa ngước nhìn lên conrắn đồng để được chữa lành (Ga 3:13-15).
Trình thuật Ds 21:4-9 cho biết: Từ núi Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Ê-đôm, trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này”. Vì họ cứng đầu cứng cổ, Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết.
Ngày nay, chúng ta cũng chẳng hơn gì dân Ít-ra-en xưa, thậm chí còn ngang bướng và tinh vi hơn nhiều. Ca dao Việt Nam nói: “Khi vui chẳng nhớ tới ai, Khi nóng thì cứ trái tai mà sờ”. Có lẽ chúng ta quen “xin – cho” nên cứ mở miệng cầu nguyện là xin này, xin nọ, xin tới tấp, xin đủ thứ, Chúa nghe không kịp mà vẫn bị đầy lỗ tai. Chúa cũng mệt với lũ phàm nhân lắm! Chúng xin được thì cười trừ rồi thôi, xin không được thì quay ngoắt 180 độ, đôi khi còn dám ngang nhiên trách “trời mù” nữa đấy. To gan thật!
Dân xưa ngang ngược đến nỗi bỏ Chúa, đi đúc bò vàng mà tôn thờ. Nhưng họ chịu khổ hết xiết, đành quay về với Chúa. Họ đến năn nỉ với ông Môsê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi”. Ông Môsê thương tình mà khẩn cầu Thiên Chúa cho dân thoát ách tai ương. Thiên Chúa giàu lòng thương xót liền nói với ông Môsê: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”. Ông Môsê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Quả thật, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được cứu sống ngay.
Chúng ta ngày nay có nhiều loại “bò vàng” lắm, đủ cỡ và đủ kiểu. Chắc hẳn mỗi chúng ta cũng đã có kinh nghiệm “xương máu” về chuyện tôn thờ ngẫu tượng: Mê tiền, ham lợi, ưa “chảnh”, khoái chức, đòi quyền,… Đó là chưa nói đến đắm chìm trong tội lỗi đấy! Chu choa, nhiều kiểu lắm, nhiều dạng lắm, nhiều mức độ lắm! Và cuối cùng, chúng ta gặp đau khổ, đành quay về với Chúa, nhưng rồi chẳng được bao lâu, chúng ta lại như con ngựa quen đường cũ. Thế mà Thiên Chúa vẫn thương xót và tha thứ. Vô cùng may mắn cho chúng ta. Nhưng quả thật, chúng ta không thể nào hiểu nổi lòng thương xót của Ngài!
Tác giả Thánh Vịnh bày tỏ Thánh Ý Chúa từ xưa: “Dân tôi hỡi, này nghe tôi dạy bảo, lắng tai đón nhận lời lẽ miệng tôi. Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi lời huấn dụ, công bố điều huyền bí thuở xa xưa” (Tv 78:1-2). Thiên Chúa biết phàm nhân chúng ta là những “hạt bụi nhỏ nhoi” nhưng lại vô cùng kiêu ngạo. Tuy nhiên, Ngài vẫn yêu thương, khuyên nhủ, dỗ dành, chỉ mong chúng ta nhận biết và tôn thờ Ngài là Thiên Chúa toàn năng duy nhất.
Tuy nhiên, phàm nhân chúng ta có cái đầu cứng và đầy máu kiêu ngạo, khoái đi đường tắt hơn đi đường chính. Nhưng rồi cũng có lúc “giật mình” khi phải đương đầu với đau khổ: “Khi Chúa giết họ, họ mới đi tìm Chúa, mới trở lại và mau mắn kiếm Người, mới nhớ rằng: Thiên Chúa là núi đá họ ẩn thân, Thiên Chúa Tối Cao là Đấng cứu chuộc họ” (Tv 78:34-35).
Lúc đau khổ thì tỏ vẻ chân thành hối lỗi, nhưng lúc an bình thì lại thích nổi loạn, nói hay mà làm chẳng ra gì, Thiên Chúa biết chúng ta lọc lừa mà Ngài vẫn xót thương: “Miệng họ phỉnh phờ Chúa, lưỡi họ lừa dối Người; còn lòng dạ chẳng chút gì gắn bó, chẳng trung thành giữ giao ước của Người. Nhưng Người vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt, nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí” (Tv 78:36-38). Nhưng rồi sẽ có ngày Thiên Chúa không còn dành thời gian chờ đợi chúng ta sám hối nữa. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại cuối cùng, thời gian thương xót cuối cùng, ai không sám hối và không chân thành tín thác vào Đức Kitô thì hậu quả sẽ thê thảm đời đời!
Thánh nữ Faustina nhận định: “Mọi sự bắt đầu bằng Lòng Thương Xót của Ngài và cũng kết thúc bằng Lòng Thương Xót của Ngài. Mọi ân sủng tuôn chảy từ Lòng Thương Xót của Ngài, và những giờ khắc cuối cùng đầy tràn Lòng Thương Xót của Ngài. Đừng để ai nghi ngờ lòng nhân hậu của Thiên Chúa; mặc dù tội lỗi của con người đen tối như màn đêm, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vẫn mạnh hơn nỗi đau khổ của chúng ta” (Nhật Ký, số 1506).
Thánh Phaolô nói: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:2-8). Trí tuệ và lý luận của chúng ta không thể phân tích để hiểu hết tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, có tất cả những gì cao quý nhất, thế mà Ngài lại bỏ tất cả, thậm chí là thí mạng, để tìm kiếm và cứu chúng ta đem về cho Chúa Cha.
Thánh Phaolô kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:9-11). Ngược lại, ai không chân nhận Đức Giêsu Kitô là Thiên-Chúa-nhập-thể-làm-người thì chắc chắn không được Ngài đưa về Quê Trời vĩnh hằng: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:18). Thánh Gioan đã cho chúng ta biết chắc chắn có sự sống đời đời (x. 1 Ga 5:13).
Thập giá là vinh quang, là chiến thắng, chứ không là thất bại như loài người suy tưởng. Thi sĩ kiêm kịch tác gia Pièrre Corneille (1606-1684, Pháp quốc) đã có nhận xét thú vị và rất đúng: “Chiến đấu càng gian nan, khải hoàn càng vinh quang”. Thật vậy, cuộc sống cho chúng ta thấy rằng không có niềm hạnh phúc nào mà lại không có dấu vết của sự đau khổ.
Truyện “Hoàng tử và Thanh kiếm” kể thế này: Một hôm, Vua Charles V kêu hoàng tử đến và cho quyền lựa chọn. Trên bàn, nhà vua đặt một thanh kiếm và một triều thiên. Vua cha hỏi: “Con chọn cái nào?”. Chần chừ một lúc, hoàng tử cầm lấy thanh kiếm. Thấy lạ, vua cha hỏi: “Sao con lại chọn thanh kiếm?”. Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện và đáp: “Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được triều thiên kia”. Câu chuyện ngắn gọn nhưng mang ý nghĩa thâm thúy, cho thấy rằng đau khổ luôn đi trước hạnh phúc.
Một hôm, khi đàm đạo với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giêsu xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:13-15). Chính Chúa Giêsu đã xác định việc tin vào Ngài là mối phúc, vì ai tin Ngài sẽ được lên trời với Ngài.
Và rồi chính Chúa Giêsu lại tiếp tục xác định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3:16-17). Rõ ràng rồi, không còn gì khả nghi nữa. Tuy nhiên, tin Chúa Giêsu thì phải kiên trì đồng hành với Ngài hết chặng đường thập giá: Một nhánh vươn lên trời đưa chúng ta đến với Chúa Cha, qua Đức Giêsu Kitô; một nhánh đưa chúng ta đến với tha nhân, nhất là những người hèn mọn và đau khổ nhất. Không thể tách rời hai nhánh của thập giá.
Ước gì mỗi chúng ta luôn tâm niệm: THÁNH GIÁ là cái GIÁ để NÊN THÁNH.
Lạy Chúa Kitô, chúng con xin tôn vinh Thánh Giá bằng cách chấp nhận đau khổ hằng ngày để vinh danh Thiên Chúa, để cứu các linh hồn và để đền tội của chúng con. Xin cho chúng con được nên một với Ngài trong Mầu Nhiệm Thập Giá. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Thương yêu và thù hận
(Chúa Nhật XXIV TN, năm A)
Thương yêu là điều quan trọng nhất vì thương yêu chính là đức mến hoặc đức ái, cần thiết cho cả đời này và đời sau: “Đức mến không bao giờ mất được. Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13:8 và 13). Thương yêu điều chỉ có thể cảm nhận nhưng không thể chạm vào. Tha thứ là kết quả của thương yêu. Thù hận là không thương yêu.
Ngược với thương yêu là thù hận. Thù hận liên quan tội lỗi. Thương yêu liên quan tha thứ. Những mẫu tự T luôn có cái gì đó kỳ diệu, như một sự an bài của Thiên Chúa vậy. Lòng thù hận rất nguy hiểm và đáng sợ, vì nó tàn phá mọi thứ trong cuộc sống. Sách Huấn Ca nói: “Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm, về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài” (Hc 27:30).
Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16) nên Ngài luôn truyền dạy thương yêu, không chấp nhận lòng thù hận: “Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly” (Hc 28:1).
Sách Huấn Ca vừa khuyên nhủ vừa phân tích và đặt vấn đề: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha. Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận thì ai sẽ xin tha tội cho nó?” (Hc 28:2-5). Có lẽ người ta không thích nghe hoặc nhắc tới câu này vì “chạm” vào điểm nhạy cảm của mình. Thật vậy, người ta là chiên khi ở trong nhà thờ nhưng lại hóa cọp khi ở ngoài nhà thờ. Khi cầu nguyện, người ta có vẻ thành kính lắm, nhìn rất hiền, thế nhưng có khi người ta chỉ giả vờ trước mặt người khác, tỏ ra thành tâm trước mặt Chúa, nhưng khi gặp điều “phật ý” thì họ nổi xung, không khác ảo thuật gia David Coperfield làm biến mất cả toa xe lửa hoặc đi xuyên qua Vạn Lý Trường Thành. Họ cũng là các “siêu nhân” đấy!
Thiên Chúa luôn cảnh báo về việc canh tân đời sống, Đức Mẹ cũng nhắc nhở, nhưng rồi chúng ta chỉ “lưu ý” và “cố gắng” trong những ngày mùa Vọng, mùa Chay, hoặc tuần tĩnh tâm, xong rồi lại quên, “cái tôi” lại tung hoành. Hôm nay, Thiên Chúa lại cảnh báo: “Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn. Hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác, nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao mà không chấp nhất điều lầm lỗi” (Hc 28:6-7). Nghe đến “tối tăm ba ngày ba đêm” thì cuống cuồng, lo mua nến và mì gói, xong rồi lại chứng nào vẫn tật đấy. Và lời Chúa khuyến cáo với dân Ít-ra-en xưa vẫn còn “nóng hổi” và mang tính “thời sự” đối với chúng ta ngày nay: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 95:8-9).
Chắc hẳn vì biết mình yếu đuối nên tác giả Thánh Vịnh luôn tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi, cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:1-4). Ước gì mỗi chúng ta cũng biết tự nhủ như vậy! Quả thạt, biết bao lần Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta mà không đòi điều kiện gì. Kinh sách đọc nhiều, coi chừng như “vẹt” đấy! Tự nhủ như vậy là tỉnh thức và nhắc nhở về đức ái, về lòng tha thứ mà Chúa Giêsu đã thường khuyến cáo.
Chúng ta chỉ là phàm nhân, đầu óc “bã đậu” và nhỏ xíu, nghĩ không tới ngọn cây, nên không thể nào hiểu hết tình yêu vô biên của Thiên Chúa: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta” (Tv 103:8-12). Lòng thương xót của Thiên Chúa trên cả tuyệt vời, nhiệm mầu quá đỗi! Phàm nhân chúng ta chẳng là gì mà vẫn “chảnh”, lúc nào cũng muốn “vùng lên”, chỉ chực nổi loạn mà thôi. Khốn nạn thật, thế mà vẫn tưởng mình “ngon” mới chết chứ. Lạy Chúa tôi!
Vì thế, chúng ta mới phải cố gắng chấn chỉnh cho phù hợp luật Chúa, đúng ý Chúa. Nỗ lực này phải được thực hiện không ngừng, chứ không chỉ cố gắng theo cảm xúc hoặc theo mùa phụng vụ. Không dễ, nhưng phải làm, không làm không được. Đó chính là “từ bỏ mình mà vác thập giá theo Đức Kitô” (Mt 10:37-39; Lc 14:26-27). Thánh Phaolô nói rõ: “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Kitô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14:7-9). Phó thác hoặc tín thác như vậy thì chẳng còn gì phải lo, chẳng cần quan tâm “sự lạ” ở chỗ này hoặc chỗ nọ. Hãy chú ý hai phép lạ lớn lao vẫn xảy ra hằng ngày: Không khí và Thánh Thể.
Một hôm, khi Chúa Giêsu nói về việc sửa lỗi cho nhau, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu và hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” (Mt 18:21). Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18:22). Khó quá! Một lần thì cũng có thể, hai lần là máu bốc tới chỏm đầu rồi, nói chi đến 49 lần (7 x 7). Thế nhưng muốn là môn đệ của Chúa và muốn làm công dân Nước Trời thì phải vậy, không chỉ tha thứ 49 lần mà phải tha thứ mãi mãi, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, bất cứ với ai, và không còn đếm số lần nữa.
Để chứng minh cụ thể, Chúa Giêsu kể dụ ngôn “tên mắc nợ không biết thương xót” (Mt 18:23-35): Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. Khi nhà vua vừa bắt đầu thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy để xin rộng lòng hoãn nợ và hứa sẽ lo trả hết. Chủ nợ liền chạnh lòng thương, cho về và tha luôn món nợ. Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà đòi nợ. Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ xin rộng lòng hoãn nợ và hứa sẽ lo trả hết. Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. Tôn chủ cho đòi y đến và vặn hỏi: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn như chính ta đã thương xót ngươi sao?”. Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. Đó là hệ lụy tất yếu thôi!
Dụ ngôn này cho thấy tương tự cách chúng ta “biến hóa” thường xuyên: HIỀN như CHIÊN khi ở trong nhà thờ, DỮ như CỌP khi ở ngoài nhà thờ. Chính “tên mắc nợ không biết thương xót” kia cũng có thể là chính chúng ta, có thể chúng ta ảo tưởng hoặc cố ý không muốn nhận. Nhận biết để sửa sai thì tốt, cố chấp là chết chắc!
Vâng, Chúa Giêsu đã kết luận rạch ròi: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18:35). Mỗi người đó chính là mỗi chúng ta. Chúa Giêsu nói thẳng với mỗi chúng ta đó. Tương tự, trong Kinh Lạy Cha (Mt 6:9-13; Lc 11:2-4) – lời cầu nguyện được Chúa Giêsu truyền dạy, cũng đề cập vấn đề này: “Xin tha nợ chúng con NHƯ chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Chữ “như” này có vẻ đơn giản nhưng lại chứa đựng cả vấn đề quan trọng và cấp bách. Tại sao cấp bách? Vì chẳng ai biết mình “ra đi” lúc nào. Lá vàng hoặc xanh vẫn có thể lìa cành bất cứ lúc nào. Đó là “ngày tận thế” riêng của mọi người, dù trẻ hoặc già.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết tỉnh thức mà sửa đổi cách sống, chứ không ảo tưởng. Xin giúp chúng con biết thương xót bằng cả con người của chúng con: Con tim, khối óc, đôi tay, ánh mắt, cử chỉ, thái độ,… chứ không chỉ bằng lời nói. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU