“Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19). “Người được cất lên ngay trước mặt các ông và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv 1,9).
Biến cố thăng thiên đã được các thánh sử nhắc lại như một khẳng định chắc thực về việc Đức Giê-su đã sống lại và đã ngự trị trong Nước vinh quang của Cha. Biến cố này cũng nhắc nhở rằng Ngài đã được phong là Chúa (Kyrios), là Đấng Kitô (Christos), là Vua (Messia) vinh hiển, vì Ngài đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh thiên sai, như Ngài đã nói trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, “Thế là đã hoàn tất” (Gio 19, 20). Chúa đã hoàn tất sứ mệnh cực kỳ gian khổ nhưng đầy vinh quang của Ngài và từ nay sứ mệnh ấy sẽ được trao phó lại cho Cộng đoàn thừa sai mà Ngài đã thiết lập. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần…” (Mt 28,19).
Có thể các môn đồ của Đức Giê-su ngỡ ngàng và hụt hẫng trước việc Chúa “ra đi” trong biến cố “thăng thiên” này, nhưng hơn ai hết các ông sẽ hiểu rằng Chúa “ra đi” thì có lợi cho họ, và rằng Ngài “đi” nhưng không rời xa họ, Ngài luôn hiện diện với họ cho đến ngày tận thế (x.Mt 28,20). Sứ vụ của Chúa chỉ kéo dài hơn 30 năm tại thế, nhưng sứ mệnh của Hội thánh thừa sai thì kế tục mãi đến ngày Quang Lâm của Chúa. Chính vì lí do đó mà Chúa rất quan tâm gầy dựng một Cộng đoàn thừa sai hoạt động thật hữu hiệu, thật chuyên cần và thật khẩn thiết.
Từ biến cố thăng thiên của Đức Giê-su, người Ki-tô hữu chúng ta có thể nhận ra 3 vấn đề liên quan sứ mệnh truyền giáo.
* MỖI NGƯỜI TÍN HỮU LÀ MỘT TÔNG ĐỒ
Tông đồ là người được sai, nghĩa là nhà truyền giáo. “Nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định của Thiên Chúa ngày càng lan rộng tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại. Vì thế, khắp nơi phải mở đường cho họ tích cực tham gia vào công cuộc cứu độ của Giáo Hội, tùy sức lực của họ và tùy nhu cầu của thời đại ” (Vat. II, LG 33). Vậy đã rõ, người Ki-tô hữu chúng ta không phải chỉ lo “có đạo, giữ đạo” cho riêng mình mà còn có nghĩa vụ và bổn phận “tham gia vào công cuộc cứu độ của Giáo Hội” nữa. Khi tham gia như thế, chúng ta không chỉ “làm tín hữu” mà còn làm người tông đồ, làm sứ giả Tin Mừng Đức Ki-tô…
Tuy nhiên, trước khi bắt tay vào công cuộc truyền giáo cách cụ thể, chúng ta được mời gọi đốt nóng lên nỗi băn khoăn thao thức muốn truyền giáo và sống đời truyền giáo. Quả vậy, chúng ta chưa thực sự truyền giáo nếu chúng ta chưa ước muốn truyền giáo, chưa cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, chưa hi sinh cho sứ mệnh loan báo Tin Mừng…Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giê-su được tôn phong là “Bổn mạng các xứ truyền giáo” không do những công trình truyền giáo vĩ đại mà là do những thao thức “muốn đi truyền giáo” khắp nơi trên thế giới. Ngài truyền giáo bằng đời sống hi sinh âm thầm, bằng kinh nguyện liên lỉ và bằng ước muốn sâu xa từ trong cõi lòng.
Ước nguyện truyền giáo của chúng ta phải xuất phát từ nhận thức rằng truyền giáo là ơn gọi của mỗi người tín hữu, “Tất cả các phần tử trong Hội Thánh mỗi người mỗi cách đều được sai đi. Ơn gọi Ki-tô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ. Mọi hoạt động của Nhiệm Thể nhằm làm cho Nước Đức Ki-tô mở rộng trên khắp hoàn cầu được gọi là việc tông đồ” (x. GLHTCG số 863).
* TẤM GƯƠNG CỦA NHÀ TRUYỀN GIÁO
Việc truyền giáo khởi sự từ chính bản thân người truyền giáo. “Ngày nay người ta sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy” (ĐGH Phaolô VI), câu nói này thường được nhắc đi nhắc lại nhằm giúp chúng ta khẳng định là “lời nói” không quan trọng bằng “tấm gương sống” của chứng nhân. Chính Chúa Giê-su cũng đã nhắc nhở: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Ki-tô hữu là ánh sáng, là muối, là men cho mọi tầng lớp con người chưa nhận biết Tin Mừng. Thế giới ngày nay khát khao những tấm gương chứng tá Tin Mừng cứu rỗi do Chúa loan truyền. Tấm gương về bác ái công bình, về lòng bao dung tha thứ, về sự hi sinh quên mình phục vụ, về nếp sống nghèo khó, tín thác và vâng phục, về thái độ dám nói “không” với đủ mọi loại tội.
Theo dõi tin tức trên báo chí hằng ngày, chúng ta rất dễ dàng thấy rằng con người ngày nay, kể cả lớp trẻ tuổi niên thiếu, đã thực sự đánh mất cảm thức về tội. Tội giết người, tội dâm ô, tội loạn luân, tội lường gạt, tội vô cảm, tội trộm cắp, tội tham ô, tội bạo hành trong gia đình, tội phá thai, tội tôn thờ bản thân và thần thánh hóa ngẫu tượng vv…Thực tế là chúng ta sẽ mãi mãi phải sống chung với tội, như người ta chấp nhận sống chung với lũ, với bão, với ngập lụt, với nạn kẹt xe, với tình trạng ô nhiễm môi trường… Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, một mặt chúng ta không bao che, không đồng lõa với tội vì chúng ta “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian”, một mặt chúng ta phải vươn cao, đứng thẳng hiên ngang làm chứng cho Tin Mừng như ngọn nến sáng trong đêm tối mịt mờ.
Có thể chúng ta sẽ không thể “nói” được nhiều, nhưng nhờ ơn Chúa, bản thân chúng ta sẽ trở thành tấm gương phản chiếu một góc độ nào đó của Tin Mừng Đức Ki-tô. Thực vậy, “Truyền giáo không chủ yếu là chuyển giao một lý thuyết, mà là chia sẻ một sự sống thiêng liêng có sức biến đổi con người nên người hơn và được trở thành con của Thiên Chúa Tình Yêu” (ĐGM GB Bùi Tuần, bài “Ra khơi từ đâu?”, tháng 2-2004). Tất cả chúng ta, một khi đã tin và lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, thì trở thành con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta sống tốt địa vị ấy, chúng ta sẽ là nhà truyền giáo có sức lôi cuốn đặc biệt và gây ngạc nhiên cho nhiều người. Bởi ngày nay, người ta sống thiếu thốn tình thương và hạnh phúc, thiếu vắng bình an và hi vọng. Bản thân và đời sống Ki-tô hữu sẽ trở thành chứng tá sống động của Tin Mừng một khi mỗi người chúng ta tích cực thực thi Lời Chúa: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau ” (Ga 13, 34-35).
Ngược lại, “Trong đời sống thường ngày cũng có câu truyện thương tâm: một cô ngoại giáo lấy ngươì công giáo, láng giềng, bà con thấy cô ta đẹp nết, giục cô ta vào đạo Chúa. Cô ta trả lời: Khi nào cháu thấy đạo Chúa hơn đạo Phật, cháu mới vào. Tìm hiểu, người ta biết được bà mẹ chồng rất siêng năng đọc kinh, dự lễ, đã từng bỏ ra chục triệu cùng với nhiều bà khác giúp cha sở đi Roma xin ơn Đức Giáo hoàng, nhưng bà đã từng sang (nhà) giật nồi, lấy niêu của một bà hàng xóm nghèo chưa có tiền trả nợ cho bà. Cô dâu in trong lòng hình ảnh không tốt về mẹ chồng và về đạo”. (LM FX. Nguyễn Hùng Oánh, “Bản chất của GH là truyền giáo”, VietCatholic News 18-10-2008).
* CHÚA LÊN TRỜI, MÔN ĐỆ VÀO ĐỜI
Vào đời để nối tiếp công trình cứu độ của Chúa Giê-su. Vào đời, đó là mệnh lệnh của Chúa. Vì, như Chúa Cha đã sai Đức Giê-su thế nào, thì Chúa Con cũng sai chúng ta như vậy. Với ơn Chúa mà chúng ta cầu xin hằng ngày, với đức tin mà chúng ta nuôi dưỡng từ tấm bé đến giờ, với lòng mến mà chúng ta luyện tập thường xuyên, chúng ta sẽ mạnh mẽ và vững vàng bước vào cánh đồng truyền giáo bao la mà Chúa đang mong đợi chúng ta đến.
Theo Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II, cánh đồng truyền giáo ấy muôn dạng muôn vẻ, nhưng có thể đúc kết thành 3 nhóm: Nhóm những người chưa biết, chưa tin Đức Giê-su Ki-tô; Nhóm những người đã tin Đức Giê-su Ki-tô và đã lãnh nhận bí tích rửa tội, nhưng đã đánh mất niềm tin, rời bỏ Giáo hội, đang sống như người lương dân; Nhóm những người tin Đức Giê-su Ki-tô và đã được rửa tội (Nguyễn Văn Nội, “Loan báo Tin Mừng”- Hưởng ứng thư Mục Vụ 2003 của HĐGMVN, phần VI “Tông đồ giáo dân”).
Vậy tùy theo hoàn cảnh, điều kiện và môi trường cụ thể, chúng ta sẽ vận dụng sáng kiến và khả năng mình có để làm chứng Đức tin Ki-tô giáo và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Dù ở đâu và vào thời điểm nào, chúng ta vẫn cần phải tạo nên bầu khí bác ái cho truyền giáo và chính bản thân chúng ta luôn là dấu chỉ của lòng mến Ki-tô giáo. Sự hiện diện của tông đồ giáo dân ở khắp nơi, trong mọi thời, vừa mang tính chứng tá lại vừa được xem như công cụ giới thiệu Tin Mừng cho nhân loại.
“Trước mặt nhân loại, mỗi giáo dân phải là chứng nhân của sự Phục sinh và sự sống của Chúa Giê-su Ki-tô, đồng thời là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi người góp phần nuôi dưỡng thế giới này bằng những hoa trái thiêng liêng (x. Gl 5,22) và truyền bá cho thế gian tinh thần của những người nghèo khó, hiền lành và hiếu hòa, những người mà Phúc Âm Chúa đã tuyên bố là có phúc (x. Mt 5,3-9). Tóm lại, người Ki-tô hữu hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác sống”(Vat.II,LG38)./.
Aug. Trần Cao Khải