Lời Chúa: Thứ Ba tuần XIV Mùa Thường Niên A

Lúa chín đầy đồng

Thứ Ba tuần XIV mùa Thường Niên – Ngày 11/7: Thánh Bênêđictô, viện phụ
Lời Chúa: 

 Mt 9,32-38

32 Khi ấy, người ta đem đến Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. 33 Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: “Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong dân Israel”. 34 Nhưng các người biệt phái nói rằng: “Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”.

35 Và Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. 36 Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn. 37 Người liền bảo môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. 38 Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”.

(Nguồn: Uỷ ban Thánh Kinh / HĐGMVN)

“Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa.” (Mt 9,37-38)

 
Suy niệm: 

* Hạnh Thánh: Thánh Bênêđictô, Viện Phụ (480-547)

1. Đôi hàng tiểu sử

Thánh Bênêđictô sinh tại Norcia năm 480 trong một gia đình giàu sang quý tộc.

Khi nhỏ, cha mẹ cho ngài được ăn học ở địa phương, để gần gũi với gia đình, dễ bề đào tạo tính tình đức hạnh.

Năm 14 tuổi, thánh nhân được gởi đến học ở Rôma. Học ở Rôma được một thời gian, ngài thấy Rôma không phù hợp với mình vì cuộc sống ở Rôma lúc đó rất suy đồi trụy lạc. Để giữ gìn linh hồn mình được luôn trong sạch. Ngài đã trốn khỏi kinh thành, muốn tìm đến một nơi thanh vắng, sống đời ẩn tu tịch mạc. Ý muốn của Ngài đã được Chúa ưng thuận. Miền hoang địa cách Rôma 40 dặm là nơi Ngài đã dừng chân để được sống cuộc đời tịch liêu thân mật với Chúa. Trong khi còn đi lang thang tìm một hang trú ẩn, Bênêđictô gặp được thầy Rômanô, một tu sĩ cùng chí hướng với mình. Tình yêu và lý tưởng đã kết hợp hai người thành đôi bạn chí thiết. Rômanô chỉ cho Bênêđictô một hang rất kín chưa hề có một vết chân người lui tới. Bênêđictô sống ở đó ba năm. Hằng ngày thầy Rômanô mang bánh cho Ngài. Sau thời gian vắn vỏi sống đời ẩn dật hoàn toàn, Chúa muốn đặt ngọn đèn thánh thiện của Bênêđictô lên nơi cao để soi dẫn cho nhiều người.

Ma quỷ thấy nhân đức của ngài thì luôn tìm đủ cách quấy phá. Đứng trước những cám dỗ của ma quỷ, Ngài luôn làm dấu Thánh giá xua đuổi chúng. Còn những người muốn sống đời nhân đức trọn lành tìm đến, thì Ngài luôn sẵn sàng hướng dẫn giúp đỡ, dạy bảo. Nhờ đó mà danh thơm thánh thiện của ngài lan rộng khắp nơi. Cả những người quý phái ở Rôma cũng đến xin làm môn đệ ngài. Ngài thành lập 12 tu viện nhỏ, để tiếp nhận họ và giúp họ tập rèn nhân đức.

Số người muốn tu luyện theo đường lối thánh nhân mỗi ngày một đông, nên năm 520, ngài phải dời về Montô Cátsinô, thành lập tu viện. Đây là tu viện đầu tiên của thánh Bênêđictô. Chính Ngài soạn tu luật cho tu viện. Sau này tu luật mang tên người được phổ biến khắp châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương Tây”.

Ngày nay hầu như tất cả các nước trên thế giới đã có sự hiện diện của các đan viện sống theo lý tưởng của Ngài. Các tu sĩ của Ngài đã hết lòng yêu mến và tuân giữ ba đặc điểm như ba cột  trụ chi phối và nâng đỡ đời sống của mình. Ba cột trụ đó là cầu nguyện, học hành và lao độngNgười tu sĩ hằng ngày chuyên cần cầu nguyện, siêng năng học hỏi Lời Chúa và làm việc chân tay để tự nuôi sống.

Bênêdictô qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547. Từ cuối thế kỷ VIII, Ngài đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7. Ngày 24 tháng 10 năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ra tông thư “Sứ giả hoà bình” (Pacis nuntius), đặt người làm bổn mạng toàn châu Âu.

Sau khi Ngài qua đời, các môn đệ của thánh nhân đặt xác thày mình bên cạnh xác em gái Ngài, trong mộ Ngài đã dọn sẵn cho mình ở dưới bàn thờ thánh Gioan Baotixita.

Cuộc đời trần thế của thánh nhân tới đây kết liễu, nhưng  danh thơm và sự nghiệp vĩ đại của Ngài sẽ còn tồn tại như bia đá ngàn thu, Người ta quên sao được bộ tu luật bất hủ của Ngài đã làm hứng khởi bao tâm hồn đạo đức là kim chí nam cho những ai muốn nên thánh thiện. Đàng khác sự tiến phát mau lẹ của dòng và con số đông đảo của những tu sĩ rải rác khắp năm châu, phải chăng chính là dấu Chúa quan phòng hằng chúc phúc cho sự nghiệp của đấng thánh qua muôn thế hệ

2. Con đường nên Thánh

a. Chí muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa

Trong cuốn “đối thoại”, thánh Grêgôriô cả, sử gia của Bênêđictô, mệnh danh Ngài là “người của Thiên Chúa”. Ơn gọi của Bênêđictô độc đáo ở chỗ này là “chỉ muốn đẹp lòng duy nhất mình Thiên Chúa”. Ngài thực thi tốt và liên lỉ các nhân đức đối thần đến nỗi tất cả cuộc sống Ngài được Thiên Chúa qui hướng. Người của Thiên Chúa trước tiên là người của lòng tin. Điều này ta thấy được dễ dàng qua qui luật. Sử gia Daniel Rops: “Tất cả con người Bênêđictô là ở trong qui luật. Nếu ta muốn chấm phá dung mạo thiêng liêng của Ngài, thì phải rút những nét tự Qui luật, đó là bức chân dung trung thực nhất về Ngài” Thánh Grêgôriô khẳng định : “Ngài không dạy điều gì khác Ngài đã sống”. Cho mỗi vấn đề mới được nêu ra, Ngài đã trả lời trước tiên bằng mỗi tác động đức tin. Vậy thì Đan Viện là gì? – thưa, là “Trường phụng sự  Chúa”, cho nên đồ đạc và tài sản của đan viện phải được coi như những  “bình thánh”, cung hiến cho Thiên Chúa  (Qui luật 31).

Mọi công việc phải được xử lý một cách lương thiện “Để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh” (57). Nhưng trong việc nào, ta gặp Thiên Chúa hoàn  toàn hơn?- Đó là Nhật Tụng, là việc của Thiên Chúa. Do đó “Đừng coi việc gì quí hơn Nhật Tụng”(43). Điều này không có nghĩa là ta gặp được Chúa ít hơn trong nơi khác. Trái lại, viện phụ là Đức Kitô (2), khách và nhất là người nghèo là Đức Kitô (53). Bệnh nhân cũng còn là Đức Kitô (36). Ở mọi nơi, đan sĩ có thể gặp Đức Kitô.

b. Luôn tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa

Năm 339, nước Ý phải cơn đói kém lớn lao chưa từng thấy; nhân dân khắp nơi đều phải điêu linh khổ sở túng đói. Kho lẫm của tu viện thánh Bênêđictô cũng đến ngày hết sạch lương thực: ngày kia chỉ còn có 5 chiếc bánh để cho cả nhà hàng trăm người dùng bữa. Thấy các thày ai cũng rầu rầu mặt, vị tu viện trưởng khả kính liền buông lời trách mát các thày vì thiếu lòng tin tưởng. Ngài nói:

– Sao các anh em buồn rầu vì thiếu bánh? Ngày hôm nay chúng ta còn ít, thì ngày mai chúng ta sẽ có dư dật.

Hôm sau quả thấy có hai trăm thùng bột mì đựng trong các bao mà không ai biết là Thiên Chúa toàn năng đã sai ai đem đến. Các tu sĩ ai nấy dâng lời tạ ơn Chúa và từ đấy không bao giờ phải lo túng thiếu cả, khi trời lâm đói kém, mất mùa cũng vậy. Lần  khác có một người bị truy tố vì không có tiền trả một món nợ cấp bách. Ông đến bày tỏ tình cảnh của mình với Tu viện trưởng Bênêđictô và xin Ngài thương giúp. Thánh nhân trả lời rằng: mình không có đủ 12 đồng tiền vàng để cho ông, rồi Ngài tiếp thêm để an ủi:

– Ông cứ về và hai ngày nữa trở lại đây, vì hôm nay tôi không có để mà cho.

Trong hai ngày đó thánh nhân cầu nguyện nhiều; ngày thứ ba con nợ trở lại, người ta thấy trên mặt hòm vẫn chứa bột mì có 13 đồng vàng, thánh nhân bảo người nhà đem trao cho con nợ tội nghiệp kia và nói:

– Ông hãy lấy 12 đồng mà trả nợ còn một đồng để mà chi tiêu riêng.

c. Quy luật của đời sống cộng đoàn:

“Các đan sĩ hãy cố công và hâm mộ luyện tập lấy thứ thiện tâm ấy, đó là:
Ân cần tôn kính lẫn nhau;
Hết sức kiên nhẫn chịu đựng các nhược điểm hồn xác của nhau;
Thi đua vâng lời nhau;
Không ai tìm ích lợi cho mình;
Trái lại, hãy tìm lợi ích cho nhau;
Thực thi nghĩa vụ huynh đệ với lòng trong sáng;
Kính sợ Chúa trong tình thương;
Yêu mến Viện Phụ bằng tình yêu chân thành và khiêm tốn;
Và sau hết tuyệt đối không quí trọng gì hơn Chúa Kitô, Đấng dẫn đưa hết thảy chúng ta lên cõi đời đời.”

A- Phân tích (Hạt giống…)

Bài Phúc Âm này gồm hai ý:

1. Chúa Giêsu trừ quỷ cho một người câm nói được. Căn cứ theo lời tiên tri của Isaia, phép lạ này chứng minh Ngài là Đấng Messia. Nhưng những người biệt phái cố tình không hiểu ý nghĩa của phép lạ này, họ còn xuyên tạc rằng Ngài đã cậy sức của quỷ vương mà làm việc đó.

2. Tấm lòng của Chúa Giêsu đối với dân chúng: Ngài tận tình giảng Phúc Âm và chữa bệnh cho họ, nhưng Ngài vẫn thấy họ bơ vơ như chiên không có người chăn. Một mặt Ngài cho các môn đệ hiểu hoàn cảnh ấy “lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”, mặt khác, Ngài bảo họ cầu xin “Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đi gặt lúa”.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

1. Thiên Chúa đã dựng nên con người có miệng để con người nói. Người câm không nói được là một người bất bình thường. Chúa Giêsu làm phép lạ để ban lại quyền ăn nói cho đương sự.

Tuy tôi không câm, nhưng trong nhiều trường hợp lẽ ra tôi phải nói thì tôi lại không nói: nói để an ủi người khác, nói để bênh vực chân lý, nói để rao giảng Phúc Âm… xin Chúa chữa con chứng bệnh câm này.

2. Trước phép lạ của Chúa Giêsu, những người bình dân ít học thì khen ngợi Ngài, còn những người biệt phái thông thái thì xuyên tạc. Điều này gọi là “có định kiến xấu”. Người đã có định kiến xấu thì dù thuộc giới đạo đức hay học thức (như biệt phái) cũng phạm sai lầm một cách tệ hại.

Xin cho con có một lòng và một cặp mắt trong sáng, để có thể nhận ra những giá trị của anh chị em con, và để không bị mù quáng và cư xử bất công với họ.

3. Chúa Giêsu đã chạnh lòng trước cảnh bơ vơ của dân chúng. Các nhà truyền giáo nhiệt thành cũng đều chạnh lòng như thế. nhân loại ngày nay vẫn còn bơ vơ như đoàn chiên không có người chăn. Chỉ những ai biết chạnh lòng thì mới có thể là những nhà truyền giáo.

Xin Chúa đánh động các tâm hồn Kitô hữu, nhất là các Linh mục tu sĩ.

4. Thành kiến: Cuốn phim “Dấu ấn của quỷ” kể một câu chuyện rất thương tâm.

 Một ngôi làng nhiều mê tín dị đoan, một bé gái sinh ra mang sẵn một dấu ấn trên ngực. Dân làng nói đó là dấu ấn của quỷ nên bỏ cô vào thúng rồi thả xuống biển. Một ông lão cùi đã vớt được cô đem về nuôi. Lớn lên cô gặp một chàng trai, hai người yêu nhau, lấy nhau và sống hạnh phúc bên cạch ông lão cùi. Giữa lúc dân làng tìm thấy cô gái và bắt lại. Và trớ trêu thay cũng giữa lúc ấy người phụ nữ trẻ sinh con, và đứa con cũng có một dấu ấn y như thế trên ngực. Người mẹ lấy bó đuốc cố đốt sạch dấu ấn trên ngực con nhưng vô ích. Cuốn phim kết thúc với cảnh người mẹ đau khổ gục chết, ông lão cùi tuyệt vọng đốt rụi túp lều của mình, và đứa trẻ sơ sinh ngơ ngác không hiểu số phận mình sẽ ra sao…

Đối với Chúa Giêsu không ai mang dấu ấn của quỷ, mà chỉ có hình ảnh cao quý của Thiên Chúa trong mỗi người. (Trích “Chờ đợi Chúa”)

5. Bấy giờ người nói với các môn đệ rằng “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúc mang về” (Mt 9,37-38)

Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối, nhưng vẫn có những đốm sáng rực rỡ: khi con người ngồi gần lại nhau để giải quyết tranh chấp, tìm kiếm hoà bình; khi cả thế giới lo chung một mối lo bảo vệ trái đất, ngăn chặn AIDS, diệt tận ma tuý; khi có những người nghèo quan tâm đến những người nghèo hơn; khi trẻ thơ và người già được chăm sóc; khi những hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ; khi không còn kì thị chủng tộc, tôn giáo, màu da, khi những tiến bộ khoa học làm con người sống hạnh phúc; khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau, sống trên cùng một hành tinh, dười mái nhà bầu trời.

Lạy Chúa, thế giới ngày nay còn rất nhiều người thiện tâm thiện chí để xây dựng một thế giới huynh đệ hơn. xin cho có nhiều người trẻ dấn thân cho một thế giới mới. (Hosanna)

(Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

Cầu nguyện: 

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Nơi Nhà Tạm Chúa vẫn đang nhìn đến phận người chúng con. Một phận người có qúa nhiều những lo âu vất vả. Một phận người lầm than cơ cực. Chúa vẫn đang chạnh lòng thương xót chúng con. Thương xót vì chúng con thiếu tình liên đới với nhau. Thương xót vì chúng con thiếu người biết lo lắng cho tha nhân. Xin Chúa tha thứ cho thái độ sống dửng dưng của chúng con trước khổ đau của anh em. Xin hoàn thiện chúng con nên giống Chúa để chúng con cũng biết chạnh lòng thương xót lẫn nhau, và cùng giúp nhau có cuộc sống hôm nay tốt đẹp hơn.

Lạy Chúa, xin cho chúng con có một tấm lòng và ánh mắt yêu thương của Chúa, để chúng con xoa dịu những khổ đau của tha nhân. Xin ban cho chúng con một tấm lòng quảng đại để chúng con biết sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xin cho giáo xứ chúng con có nhiều tâm hồn quảng đại để phục vụ Nước Chúa, ngõ hầu danh Chúa được mọi người tán dương qua hành vi bác ái của chúng con.

Lạy Chúa là Vua tình yêu, là hoàng tử thái bình, xin cho chúng con biết dùng tình yêu để xóa bỏ khổ đau và xây dựng hòa bình cho thế gian. Amen.

(Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

Xem thêm:

BÀI ĐỌC I: St 32, 22-32

“Tên ông sẽ được gọi là Israel, vì ông có sức mạnh chống lại Thiên Chúa”

Bài trích sách Sáng Thế

Trong những ngày ấy, Giacóp chỗi dậy sớm, đem hai vợ, hai người đầy tớ gái, và mười một người con đi sang qua khe suối Giabốc. Sau khi dẫn họ và đem tất cả của cải qua bên kia suối, ông ở lại một mình, và đây, có một người vật lộn với ông cho đến sáng. Người ấy thấy mình không thể vật ngã Giacóp được, nên đá vào gân đùi ông, và lập tức gân ấy khô bại. Người ấy nói với ông rằng: “Hãy buông ta ra, vì đã hừng đông rồi”. Ông trả lời: “Tôi chỉ buông ông ra khi nào ông chúc lành cho tôi”. Vậy người ấy hỏi: “Ông tên gì?” Ông trả lời: “Tôi tên là Giacóp”. Người ấy lại nói: “Tên ông sẽ không còn gọi là Giacóp nữa, nhưng sẽ gọi là Israel, vì nếu ông có sức mạnh chống lại Thiên Chúa, ắt ông sẽ còn mạnh sức thắng được loài người”. Giacóp hỏi người ấy: “Xin ông cho tôi biết ông tên gì?” Người ấy đáp: “Tại sao ông lại hỏi tên ta?” Bấy giờ người ấy chúc lành cho Giacóp chính nơi ấy. Giacóp đặt tên cho nơi ấy là Phanuel, và bảo rằng: “Tôi đã thấy Chúa nhãn tiền mà mạng sống tôi vẫn an toàn”.

Khi ông đã ra khỏi Phanuel, thì mặt trời liền mọc lên, nhưng ông đi khập khễnh một chân. Vì lẽ đó, con cái Israel không ăn gân đùi cho đến ngày nay, vì gân đùi Giacóp bị khô bại: bởi thiên thần đã đá vào gân đùi ông, nên ông bị bại.

(Nguồn: Uỷ ban Thánh Kinh / HĐGMVN)