14.11.2016
THỨ HAI TUẦN 33 THƯỜNG NIÊN
Lc 18,35-43
Lời Chúa:
“Anh muốn tôi làm gì cho anh? Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được.” (Lc 17,4)
Câu chuyện minh hoạ:
Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng.
Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: “Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón”. Mọi người đều làm theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: “Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn”. Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: “Đây là tình trạng của những người mù”. Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
Suy niệm:
Sau khi tuyên báo lần thứ ba về cuộc khổ nạn, Chúa Giê-su cùng các môn đệ lên Giê-ru-sa-lem. Để vào thành, thầy trò đi ngang qua Giê-ri-khô. Tại đây, Chúa Giê-su đã chữa lành mắt cho người mù, vì anh đã biết kêu xin cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin thương con” (Lc18,39).
Anh mù đã ý thức rằng mình cần Chúa, nên anh đã cố gắng hết sức để được đến gần Chúa, bất chấp mọi cản trở. Chính vì thế anh ta không chỉ được Chúa đổi mới hoàn toàn, mà anh còn thay đổi được lòng dạ hẹp hòi của những người chung quanh. Người đầu tiên anh nhìn thấy khi được sáng mắt chính là Chúa Giêsu, Đấng đã mang đến ánh sáng cho đời anh. Anh đã cởi bỏ tất cả những gì đã từng gắn bó với anh: chiếc áo choàng, đời sống ăn xin, thân phận mù lòa… mà hướng về phía trước nơi đó mang lại ánh sáng thật cho anh.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết vượt qua những cản trở, những khó khăn trong đời sống để đến với Chúa, được Chúa chia sẻ và chữa lành sự mù loà con mắt đức tin của chúng con, để chúng con nhận ra tình thương của Chúa và đền tạ Chúa. Amen.
15.11.2016
THỨ BA TUẦN 33 THƯỜNG NIÊN
Lc 19,1-10
Lời Chúa:
“Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” (Lc 17,4)
Câu chuyện minh hoạ:
Nhiều đệ tử đang theo học Thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.
Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:
– Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy?
Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
Suy niệm:
Sau khi chữa người mù tại Giê-ri-khô, Đức Giê-su tiếp tục lên Giê-ru-sa-lem. Dọc đường, Người gặp Da-kêu. Người đã vào nhà ông và ông đã được biến đổi hoàn toàn.
Sự biến đổi của Dakêu, hay Ơn cứu độ mà ông Dakêu có được là kết quả sự hợp tác từ hai phía. Đó là Dakêu biết khiêm tốn nhìn nhận mình tội lỗi, bất toàn trước Chúa Giêsu, nên ông đã tìm mọi cách gặp cho bằng được Chúa, mời Chúa đến nhà mình. Và điều quan trọng thứ hai là chính Chúa Giêsu. Hay nói đúng hơn, ơn cứu độ đích thực là có Chúa Giêsu, vì có Chúa Giêsu là có bình an, hoan lạc. Nhờ đó, ta có thể sống quảng đại và vị tha với tha nhân, như lời Dakêu đã thưa với Chúa: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8). Chính Chúa đã mở đôi mắt tâm hồn ông Dakêu khiến ông không còn thấy tiền bạc là tất cả nữa, nhưng Chúa mới là tất cả đời ông. Ông đã quảng đại cho đi tài sản và nhận được điều lớn lao là ơn cứu độ.
Lạy Chúa, giúp chúng con được gặp Chúa, gặp trong lời cầu nguyện, trong các giờ kinh, và gặp Chúa trong anh em… để chúng con cũng có thể sống cách quảng đại và vị tha với tha nhân như ông Dakêu. Amen.
16.11.2016
THỨ TƯ TUẦN 33 THƯỜNG NIÊN
Lc 19,11-28
Lời Chúa:
“Sao anh không gởi bạc của tôi vào ngân hàng?” (Lc 19,11-28).
Câu chuyện minh hoạ:
Có một lần, Phocion được lệnh đến những đảo Hi-Lạp để thu thuế. Ông ta được nhà chức trách cho 20 tàu để lo sứ mạng này.
Phocion nói: “Nếu ta đi đánh giặc thì số tàu này quá ít. Nếu ta đi tìm bạn đồng minh thì cần gì phải nhiều tàu như vậy”.
Phocion chỉ xin đem một chiếc tàu. Đến Hi-Lạp, ông đi thăm các đô thị chẳng có vẻ gì doạ nạt mà cũng chẳng phô trương thanh thế. Ông bày tỏ cho dân ở đó biết sứ mạng của mình, ông trò chuyện với các quan một cách nhã nhặn và thành thật. Kết quả, ông đã thành công và lại đem thêm được nhiều tàu về nước. Đó là những tàu của các nước đồng minh dâng cho ông để ông chở tiền thuế vậy.
Suy niệm:
Dụ ngôn những nén bạc trong đoạn Tin Mừng hôm nay, mời gọi mọi người ý thức hơn về trách nhiệm của mình đối với ơn đức tin mà Chúa đã ban cho chúng ta, trong ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội.
Thật thế, đức tin mà Chúa trao cho mỗi người chúng ta là những nén bạc. Lãnh nhận những nén bạc đó rồi, chúng ta không được phép đem chôn giấu chúng đi, mà trái lại, chúng ta phải biết đem chúng ra để đầu tư, để phát triển, để sinh lời. Hay nói rõ hơn, bổn phận của chúng ta là phải sống đức tin hằng ngày, để nhờ đó, mọi người nhìn thấy đời sống tốt lành của chúng ta mà nhận ra Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con can đảm sống và làm chứng niềm tin vào Chúa trong cuộc sống hằng ngày, để không chỉ sinh ích lợi phần rỗi cho chúng con mà còn cho những ai chúng con gặp gỡ. Amen.
17.11.2016
THỨ NĂM TUẦN 33 THƯỜNG NIÊN
Thánh nữ Êlisabeth Hungari
Lc 19,41-44
Lời Chúa:
“Phải chi ngươi nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi.” (Lc 19,42)
Câu chuyện minh hoạ:
Johannes Sebastian Bach là một nhạc sĩ Công giáo lừng danh người Đức. Khi về già bị bệnh và dường như mù lòa. Có người đề nghị ông mổ mắt. Ông nhận lời. Sau 4 ngày, bác sĩ mở băng ra, nhạc sĩ trả lời:
Xin vâng ý Chúa, tôi vẫn chẳng trông thấy gì cả. Và ông nói với thân nhân rằng: Xin mọi người hãy hát lên cho tôi bản nhạc mà tôi thích nhất, đó là bài: “Những điều Chúa làm, Ngài đều biết rõ”.
Suy niệm:
Ai cũng có một quê hương. Nhìn quê hương Giê-ru-sa-lem sắp điêu tàn dưới gót giày ngoại xâm. Chúa Giê-su đã thổn thức và khóc than. Ngài khóc bởi sự mê muội không chịu đổi thay. Ngài khóc bởi sự xấu xa tội lỗi, sự mục rửa nát tan nhưng bên ngoài tưởng chừng bình an, nguy nga tráng lệ.
Thật thế, Đức Giê-su không chỉ khóc than Thành thánh Giêrusalem đứng trước sự suy tàn, mà còn nghĩ đến thân phận mình: Tại sao con người không nhận ra Đấng Mêsia? như lời Chúa nói: “Phải chi ngày hôm nay người ta nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi.” (Lc 19,42)
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra tiếng Chúa nói với chúng con qua những biến cố trong cuộc sống và nhất là nhận ra ý Chúa qua Lời của Chúa, để chúng con luôn sống và làm theo ý Chúa. Amen.
18.11.2016
THỨ SÁU TUẦN 33 THƯỜNG NIÊN
Lc 19,45-48
Lời Chúa:
“Nhà Cha Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!” (Lc 19,46).
Câu chuyện minh hoạ:
Một giáo xứ miền quê nọ đã được thành lập từ lâu, nhưng chưa có một ngôi nhà thờ xây cất hẳn hoi. Giáo dân lại nằm rải rác trong hai ngôi làng sát cạnh nhau. Khát vọng duy nhất của giáo dân là được có nơi thờ phượng đàng hoàng. Với sự hăng say bộc phát của những người nông dân, mọi người đã quảng đại đáp lại lời kêu gọi của cha chính xứ: kẻ góp công, người góp của. Thế nhưng vấn đề cơ bản vẫn là: đâu là địa điểm xứng hợp nhất để xây cất ngôi nhà thờ mới. Người ở làng bên này thì muốn ngôi nhà thờ toạ lạc trong làng của mình. Người ở làng bên kia thì lại muốn nhà thờ được xây cất gần bên chỗ mình ở. Thế là hai bên cứ tranh luận, không bên nào muốn nhường bên nào. Tiền của đã có sẵn, vật liệu cũng không thiếu, nhưng không biết phải đặt viên đá đầu tiên ở đâu.
Giữa lúc vấn đề địa điểm xây cất chưa ngã ngũ, một nạn hạn hán trầm trọng đang đe dọa dân chúng trong cả hai làng. Thế là người ta chỉ còn nghĩ đến việc chống hạn hán hơn là xây cất nhà thờ. Năm ấy toàn dân trong hai làng đều phải chịu cảnh đói khát. Trong cảnh túng quẫn, lá lành đùm lá rách, dân làng hai bên mới nghĩ đến nhau. Một đêm kia, dân làng bên này lặng lẽ phân chia lúa thóc rồi mang qua cứu trợ dân làng bên kia. Trong khi đó, dân làng biên kia cũng có một ý nghĩ tương tự, họ cũng mang lúa thóc qua cứu trợ dân làng bên này. Giữa đêm tối, không hẹn mà hò, dân làng hai bên đã gặp nhau trong cùng một ý nghĩ và hành động. Không cần một lời giải thích, không cần một lời chào hỏi, họ đã hiểu nhau: Họ đặt những bao lúa xuống đất và ôm chầm lấy nhau… Điểm gặp gỡ của tình tương thân tương ái, của tình liên đới chia sẻ ấy đã được giáo dân gọi là “đất thánh” và họ đã nhất trí chọn địa điểm này làm nơi đặt viên đá đầu tiên xây cất ngôi nhà thờ mới của giáo xứ.
Suy niệm:
Đền thờ là nơi thánh thiêng để tôn thờ Chúa, thế mà con người đã biến nó thành nơi buôn bán, làm nhơ uế nơi linh thánh. Chúa Giêsu không chấp nhận cảnh tượng ấy nên đã bện roi xua đuổi tất cả để mang lại sự trang nghiêm cho đền thờ. Đó là đền thờ vật chất Ngài còn giận dữ như thế, còn đền thờ tâm hồn của chúng ta thì sao? Chắc chắn Ngài rất muốn mỗi người chúng ta mạnh dạn loại trừ khỏi mình những nhơ uế của gian tham, bất chính, tội lỗi…
Khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Và mỗi ngày, chúng ta được thanh tẩy bởi các bí tích. Vì thế, chúng ta hãy siêng năng lãnh nhận các bí tích để đền thờ tâm hồn chúng ta luôn được làm mới lại mỗi ngày.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con nên tinh sạch, để xứng đáng là ngôi đền thờ thánh thiêng Thiên Chúa ngự trị.
19.11.2016
THỨ BẢY TUẦN 33 THƯỜNG NIÊN
Lc 20,27-40
Lời Chúa:
“Đức Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống”(Lc 20,38).
Câu chuyện minh hoạ:
Có câu chuyện kể rằng, một lần kia ông Vontain một triết gia vô thần đã gặp Pascal và nói rằng, ông tin linh hồn bất tử và có sự sống lại đời sau để rồi trong đời sống hiện tại ông sống khắc khổ và đạo hạnh, với mình sống nhịn nhục, chịu thua thiệt với người khác, nếu không có đời sau ông là kẻ dại dột.
Pascal đã trả lời: ông nói đúng. Ông không tin linh hồn bất tử cũng không tin có sự sống đời sau nếu sống hưởng thụ thác loạn, nhưng nếu có đời sau thì ông là kẻ dại dột và ngu xuẩn hơn tôi, vì tôi chỉ thiệt thòi tạm đời này, còn ông, ông mất cuộc sống đời đời.
Suy niệm:
Sau khi Chúa Giê-su đuổi hết những kẻ buôn bán trong Đền thờ, Người còn ở lại Giêrusalem. Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su, chất vấn Ngài về việc không tin có sự sống lại. Chúa Giê-su đã dựa vào sách Xuất hành (Xh 3,6) để chứng minh cho họ thấy có sự sống đời sau. “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người tất cả đều sống” (Lc 20,38). Đó chính là Tin Mừng của Chúa, và để tin tưởng vào lời Chúa đã nói, chúng ta không còn lo sợ về sự sống hay tranh cãi về sự sống như nhóm Xa-đốc xưa.
Chúa dựng nên chúng ta để chúng ta chia sẻ hạnh phúc với Ngài, hạnh phúc vĩnh cửu. Nhiều khi chúng ta đã miên man lo cho hạnh phúc đời này mà quên đi hạnh phúc đích thực là Nước Trời mai sau. Vì thế, mỗi người chúng ta cần đặt niềm tin tưởng vào Chúa hơn nữa khi gặp những khó khăn và thử thách đời này, đồng thời tránh xa lối sống bất chính, những cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Lạy Chúa, con tin tưởng nơi Chúa, chúng con cũng tin có sự sống lại. Xin Chúa giúp con sống niềm tin này bằng chính đời sống đạo đức tốt đẹp hằng ngày. Amen.
Têrêsa Mai An
Gp. Mỹ Tho