
Dẫn nhập
– Được đánh động bởi bài giảng rất ý nghĩa và kêu gọi truyền giáo của Đức cha Phêrô Lê Tấn Lợi, Giám mục Cần Thơ trong Thánh lễ an táng Cha cố nhiệt huyết truyền giáo Phanxicô Xaviê Đinh Trọng Tự ngày 13/9/2025 vừa qua.
– Nhân dịp nghe clip bài chia sẻ truyền giáo của Đức cha Chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin mừng Đaminh Hoàng Minh Tiến tại giáo phận Thái Bình mấy ngày qua 16-19/9/2025.
– Cũng hân hạnh được tham gia chương trình đào tạo truyền giáo của Cha Giuse Nguyễn Quốc Thắng, Trưởng ban Loan báo Tin mừng Tổng Giáo phận Sài Gòn, nhân dịp chủ đề năm Truyền giáo 2025 và Hội thánh Việt Nam và hướng tới mừng 500 năm khai sinh Hội thánh Việt Nam 2033.
Thử gợi lên vài suy nghĩ:
I. XÁC ĐỊNH LẠI LẦN NỮA CĂN TÍNH CỦA TRUYỀN GIÁO QUA NỀN TẢNG THÁNH KINH VÀ GIÁO HUẤN HỘI THÁNH
Truyền giáo trước hết không khởi đi từ một sáng kiến của con người, nhưng phát xuất từ chính ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa. Công đồng Vatican II trong Sắc lệnh Ad Gentes (AG) diễn giải hoạt động truyền giáo khởi đi từ chính bản tính và tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, Đấng muốn mọi người được hiệp thông trong sự sống của Ngài (x. AG 2). Nghĩa là, chính Thiên Chúa là chủ thể đầu tiên và tối hậu của hành động truyền giáo. Chúng ta tham gia vào việc truyền giáo tức là chúng ta đang tham gia công việc của Thiên Chúa, đang làm việc cho Chúa và đang làm việc của Chúa, và với Chúa.
Tin Mừng Gioan 20,21 nói: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Chúng ta được mời gọi phải truyền giáo, bởi vì, đây là ý muốn của Thiên Chúa, Người muốn cho mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ nhờ việc tin vào Đức Giêsu Kitô (x. 1 Tm 2,4).
Như thế, truyền giáo không chỉ là một ý niệm trừu tượng hay một khẩu hiệu tôn giáo, mà là một hành động cụ thể, mang tính cứu độ và biến đổi. Nhu cầu cấp thiết của việc truyền giáo tại Việt Nam hiện nay cho ta biết rằng việc truyền giáo không dừng lại ở việc “giải thích vấn đề”, mà phải tham gia vào việc “giải quyết vấn đề”, tức là có bàn tới không bàn lùi, thực hành không lý thuyết, dấn thân trực tiếp không dựa dẫm chần chừ. Vì có vài ý kiến ngụy biện cản trở việc truyền giáo cho rằng: Nào là truyền giáo cho họ làm chi, sau này họ bỏ đạo thì linh hồn họ ai chịu trách nhiệm? Rồi đừng làm bác ái giúp họ nữa, vì họ ăn xong cũng bỏ đạo à!… Nghe thật buồn!
Do đó, hoạt động truyền giáo cần được thực hiện với một kế hoạch và lộ trình rõ ràng, khả thi, có đào tạo, có nhân sự có ý thức, tạo động lực… chứ không chỉ dừng lại ở những lời mời gọi chung chung, hay nhân danh cơ cấu hay lợi ích cá nhân phe nhóm cục bộ mà cản trở bước đường truyền giáo.
II. MỤC ĐÍCH LỚN VÀ MỤC TIÊU GẦN CỦA TRUYỀN GIÁO
Mục đích tối hậu của truyền giáo là rao giảng Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, đồng thời mời gọi con người bước vào một cuộc gặp gỡ biến đổi với Ngài. Thánh Phaolô khẳng định mạnh mẽ: “Chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi… Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23–24). Vì thế, công cuộc loan báo Tin mừng không thể bị giản lược thành các hoạt động bác ái, nhân đạo hay phân phát quà từ thiện. Những hoạt động này như phương tiện và là bước đệm cho việc nhận ra tình thương của Thiên Chúa. Những việc làm ấy chỉ thực sự có ý nghĩa trọn vẹn khi chúng được quy hướng về cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, Đấng ban ý nghĩa trọn vẹn cho đời sống con người.
Mục tiêu của truyền giáo là làm cho muôn dân trở thành môn đệ Đức Kitô, những người tự do chọn bước theo Ngài và sống theo Tin mừng. Lệnh truyền trọng đại của Chúa Giêsu diễn tả rõ ràng sứ mạng này: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19–20). Điều đó có nghĩa là Giáo hội không chỉ là một nhóm nhỏ, với lũy tre làng bao quanh khép kín, với hàng rào bảo vệ, cửa đóng then cài, kín cổng cao tường, nhưng phải mở ra phải ra đi loan báo, và làm cho muôn người nhận biết Thiên Chúa, “tìm kiếm chiên lạc nhà Israel” (Mt 15,24), “đến với vùng ngoại biên”. “Chúng ta hãy đi ra, đi ra để cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Kitô”.
Lời mời gọi “đi ra vùng ngoại biên” của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng – Evangelii Gaudium vẫn mãi luôn là lời mời gọi cấp thiết đối với mọi Kitô hữu trong mọi thời đại.
Công đồng Vaticanô II xác quyết rằng hoạt động truyền giáo nhắm đến việc “gieo trồng” Hội thánh nơi các dân tộc và nền văn hóa khác nhau, để Tin mừng có thể bén rễ và sinh hoa kết quả trong các bối cảnh đa dạng (x. Ad Gentes 6–9). Đức Phanxicô trong Tông huấn Evangelii Gaudium nhắc lại rằng trung tâm của mọi hoạt động truyền giáo và mọi nỗ lực canh tân Giáo hội chính là việc rao giảng Đức Kitô (x. EG 164). Do đó, sứ mạng truyền giáo không phải là một tùy chọn hay một khía cạnh phụ thuộc của đời sống Kitô hữu; trái lại, nó thuộc về căn tính cốt lõi của Hội thánh.
Như thế, mục đích và mục tiêu của truyền giáo gặp gỡ nhau ở điểm này: rao giảng Đức Giêsu Kitô như là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại, và đào tạo những môn đệ đích thực, biết sống Tin mừng trong đời thường. Truyền giáo không chỉ là loan báo bằng lời, nhưng còn là việc định hình những con người sống kết hợp với Đức Kitô, hướng đến hiệp thông và dấn thân biến đổi thế giới theo ánh sáng Nước Thiên Chúa.
Với sự xác tín và quyết tâm đó, ta thử có kế hoạch cụ thể như sau:
III. KẾ HOẠCH CHƯƠNG TRÌNH THỰC HIỆN CỤ THỂ
1. Nâng cao đạo đức, ý thức
Đức Phanxicô trong Tông huấn Evangelii Gaudium số 259 nói: “Hôm nay, chúng ta hãy kêu cầu Ngài, vững vàng trong lời cầu nguyện, vì nếu không có lời cầu nguyện, mọi hoạt động của chúng ta có nguy cơ trở nên vô ích và sứ điệp của chúng ta trở nên trống rỗng. Chúa Giêsu muốn những người rao giảng Tin mừng không chỉ loan báo Tin mừng bằng lời nói, nhưng trên hết bằng một cuộc sống được biến đổi bởi sự hiện diện của Thiên Chúa”.
Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Thông điệp Redemptoris Missio số 90-91 nói: “Lời kêu gọi truyền giáo, tự bản chất, bắt nguồn từ lời kêu gọi nên thánh… các nhà truyền giáo nên suy ngẫm về bổn phận thánh thiện mà ơn gọi đòi hỏi nơi họ… Nếu nhà truyền giáo không phải là người chiêm niệm, họ không thể công bố Chúa Kitô một cách đáng tin cậy”.
Vì thế, những người có trách nhiệm cần giúp người tín hữu có đức tin mạnh bằng việc học hỏi Lời Chúa và tham dự phụng vụ.
– Tạo các lớp, các nhóm, các hội đoàn trong giáo xứ học hỏi chia sẻ cầu nguyện… với Thánh kinh online trên phương tiện truyền thông hoặc trực tiếp.
– Giúp Kitô hữu tạo kế hoạch trong tuần, trong tháng… sống đời thực hành phụng vụ: Tham dự thánh lễ, chầu Thánh Thể, lần chuỗi…. chung nhóm hoặc cá nhân riêng…
– Tập sống hy sinh hãm mình, bắt đầu từ những điều nhỏ bé hàng ngày gần gũi nhất.
Sống đạo đức là khởi đầu của truyền giáo. Có đạo đức chiều sâu thật sự mới có tình yêu Chúa, có tình yêu Chúa nhiều mới đem chia sẻ cho người khác được.
2. Hội đoàn
Thông điệp Redemptoris Missio số 83 viết: “Việc đào tạo truyền giáo là nhiệm vụ của Giáo hội địa phương, với sự hỗ trợ của các nhà truyền giáo và các hội dòng của họ, cùng với đội ngũ nhân sự từ các giáo hội trẻ. Công việc này không nên được xem là thứ yếu mà là trọng tâm của đời sống Kitô hữu”.
Đưa tinh thần truyền giáo vào các bài giảng, vào ngôn ngữ phụng vụ, và vào các linh đạo hội đoàn. Tất cả các hội đoàn thực hành linh đạo riêng của mình cũng là để đưa đến linh đạo truyền giáo. Các cha linh hướng các hội đoàn, dòng tu luôn lồng ghép truyền giáo trong các buổi giáo huấn và luôn nhắc nhớ về truyền giáo.
Tất cả các hội đoàn đều là cộng đoàn cơ bản để truyền giáo. Không cần phải lập riêng thêm nhóm truyền giáo nào nữa. Vì khi ta lập thêm có thể gây hiểu lầm là nhóm đó lo truyền giáo, còn các nhóm khác khỏi cần.
3. Các em thiếu nhi, các lớp giáo lý
Ad Gentes số 38 viết: “Phải dành ưu tiên cho những Tổ chức truyền giáo vì đây là những phương tiện vừa để người công giáo, ngay từ tuổi thơ, được thực sự thấm nhuần cảm thức về đặc tính phổ quát và truyền giáo của Giáo Hội”. Nói cách khác: Hoạt động truyền giáo dành cho thiếu nhi không phải là “thêm vào” cho vui, mà là cách hình thành cho các em một “cái nhìn Công giáo” (catholic = universal) và một “tinh thần truyền giáo” từ khi còn nhỏ.
Vậy trong các lớp giáo lý cũng nên bắt đầu dạy và nhắc các em về truyền giáo. Giúp các em có thể ý thức và làm quen từ từ với sứ vụ truyền giáo. Có thể kể chuyện gương sáng truyền giáo để các em bắt chước. Các cha trong ban giáo lý nên soạn thêm giáo lý truyền giáo cho các lớp.
4. Hội nhập văn hoá: Bác ái dấn thân phục vụ
Redemptoris Missio số 52 nói: “Hội nhập văn hóa là một tiến trình sâu xa và toàn diện, bao gồm cả sứ điệp Kitô giáo cũng như suy tư và thực hành của Giáo hội. Qua hội nhập văn hóa, Giáo hội làm cho Tin mừng nhập thể trong các nền văn hóa khác nhau, đồng thời đưa các dân tộc cùng với nền văn hóa của họ vào trong chính cộng đoàn của mình.”
Truyền giáo không thể chỉ là “mang cái sẵn có” đến, mà phải gieo Tin mừng vào lòng văn hoá Việt Nam.
Điều này có nghĩa là việc rao giảng Tin mừng tại Việt Nam không thể tách rời khỏi bối cảnh văn hoá và đời sống cụ thể của người dân. Tin mừng cần được diễn đạt và sống động trong chính ngôn ngữ, tâm thức và biểu tượng quen thuộc của văn hoá Việt, chẳng hạn như tình gia đình, sự gắn bó cộng đồng, lòng hiếu thảo với ông bà tổ tiên, và tinh thần hiền hoà trong đối nhân xử thế. Khi Tin mừng được công bố trong bối cảnh này, người Việt sẽ thấy Đức Kitô không phải là một nhân vật xa lạ hay “được du nhập từ phương Tây,” nhưng là Đấng đến để kiện toàn những giá trị tốt đẹp vốn có của dân tộc.
Đồng thời, truyền giáo hôm nay cũng đòi hỏi sự dấn thân cụ thể vào các thách đố xã hội mà con người Việt Nam đang đối diện: tình trạng nghèo đói, bất công xã hội, ô nhiễm môi trường, hay những khó khăn của người di dân và công nhân xa quê, học sinh nghèo hiếu học… Chính trong những nơi ấy, Tin mừng cần được thể hiện bằng hành động cụ thể: tổ chức lớp học tình thương cho trẻ em nghèo, hỗ trợ sinh kế bền vững cho nông dân, thành lập nhóm thiện nguyện bảo vệ môi trường, hay đồng hành với người lao động xa xứ… Những việc làm này không chỉ là công tác bác ái thuần tuý, nhưng trở thành dấu chỉ của tình yêu Đức Kitô đang hiện diện và hoạt động trong đời sống xã hội.
Chính nhờ sự hội nhập văn hoá và dấn thân xã hội như thế, anh chị em chưa biết Chúa có thể cảm nghiệm rằng Đức Kitô thực sự gần gũi với họ, Ngài chia sẻ niềm vui nỗi buồn, nâng đỡ trong thử thách, và đem đến ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống. Nói cách khác, Đức Kitô trở thành Tin mừng cho dân tộc Việt Nam, không chỉ trên lý thuyết, nhưng qua đời sống và chứng tá cụ thể của Hội thánh giữa lòng dân tộc.
Giáo sư Stephano Nguyễn Khắc Dương giải thích tại sao thầy theo đạo Chúa: “Nho Giáo là một tôn giáo dành cho người tri thức, sống thanh cao và sống “trên” người khác; không dành cho người bình dân. Phật Giáo thì quan niệm rằng Đời Là Bể Khổ, nên phải tránh Đời, tự bản thân tìm sự giải thoát cho riêng mình. Còn Kitô giáo thì ngược lại, Chúa Giêsu vốn là Con Thiên Chúa nhưng đã bước vào đời, sống như một người nghèo, chia sẻ thân phận làm người của con người, vui niềm vui của con người, đau nỗi đau của phận người và yêu con người một cách say đắm đến nỗi sẵn sàng chết vì yêu con người… Đây là một tôn giáo gần với con người, gắn liền với con người, là đạo của tình yêu…”
5. Sử dụng mạng xã hội
Khuyến khích và yêu cầu các giáo xứ đều có phương tiện truyền thông, các nhóm đều có: website, hoặc facebook hoặc youtube, hoặc tiktok…. để loan truyền Chúa trên lục địa số này.
Trong bối cảnh “lục địa số” ngày nay, việc hiện diện của Giáo hội trên các nền tảng truyền thông kỹ thuật số không còn là tùy chọn, mà đã trở thành một đòi hỏi thiết yếu của sứ mạng truyền giáo. Do đó, cần khuyến khích và định hướng để mỗi giáo xứ, cũng như các hội đoàn, nhóm giới trẻ và cộng đoàn nhỏ, đều xây dựng và duy trì những phương tiện truyền thông thích hợp. Các hình thức này có thể là trang web chính thức, fanpage trên Facebook, kênh YouTube, hay tài khoản TikTok, tùy theo khả năng và nhu cầu mục vụ. Điều quan trọng không phải là sự hiện diện hình thức, nhưng là khả năng sử dụng các nền tảng này như phương tiện loan báo Tin mừng, chia sẻ đời sống đức tin, và tạo nên những “không gian hiệp thông” trong thế giới kỹ thuật số. Trong Sứ điệp cho Ngày Thế giới Truyền thông xã hội lần thứ 45 (năm 2011), Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhận định: “Các công nghệ mới cho phép người ta gặp nhau vượt qua giới hạn không gian và nền văn hoá của riêng mình, tạo ra một thế giới tình bạn tiềm tàng hoàn toàn mới mẻ. Đây là một cơ hội to lớn, nhưng nó cũng đòi hỏi phải lưu tâm nhiều hơn và ý thức về những nguy cơ có thể có”. Cũng giống như các phương tiện truyền thông hiện đại khác, mạng xã hội vừa là một ân huệ nhưng cũng vừa là một nguy cơ, đòi hỏi người tín hữu khi sử dụng phải có sự phân định và lựa chọn.Vì thế, việc đẩy mạnh truyền thông mục vụ trong mọi cấp độ của Giáo hội địa phương là một ưu tiên không thể thiếu để Hội thánh thực sự hiện diện và thi hành sứ mạng trên lục địa số.
– Khuyến khích mỗi giáo xứ, dòng tu, hội đoàn có một kênh truyền thông riêng.
– Đào tạo người trẻ trở thành những nhà truyền giáo kỹ thuật số.
– Dùng công nghệ không chỉ để phát thông báo, mà để đối thoại, lắng nghe, đồng hành.
6. Đào tạo nhân sự: Huấn luyện kỹ năng truyền giáo
Sắc lệnh Ad Gentes số 21 viết: “Thật vậy, Tin Mừng không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt của một dân tộc nếu không có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân. Do đó, ngay khi thiết lập Giáo Hội phải hết sức chú tâm đến việc đào tạo những Kitô hữu giáo dân trưởng thành… Các thừa tác viên của Giáo Hội phải đánh giá cao việc tông đồ đầy khó khăn của người giáo dân. Các ngài phải huấn luyện sao cho giáo dân, với tư cách là chi thể của Chúa Kitô, luôn ý thức về trách nhiệm của mình đối với tất cả mọi người; phải giúp họ thấu hiểu sâu xa về mầu nhiệm Chúa Kitô, chỉ dẫn họ những phương pháp thực hành, và đồng hành với họ trong những lúc khó khăn, theo tinh thần của Hiến Chế về Giáo Hội và Sắc Lệnh về Tông đồ giáo dân.”
Mở các lớp đào tạo nhân sự truyền giáo ngắn hạn hay dài hạn, tập trung hay online theo từng cấp: cấp toàn quốc trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, cấp giáo phận trực thuộc giáo phận, cấp giáo hạt và cấp giáo xứ… Học cấp dưới sẽ có chứng chỉ để lên cấp cao hơn…
Trong các lớp này khi đào tạo cần có nội dung cụ thể xét về các khía cạnh: tín lý, luân lý, giáo huấn Hội thánh, phụng vụ, giáo lý, kỹ năng, tâm lý, chia sẻ kinh nghiệm, thăm viếng thực hành….
Giáo xứ tuyển lựa nhân sự và cha sở giới thiệu lên. Nếu có thể cũng cần hỗ trợ tài chính cho đương sự.
Có thể nói cần tạo nên người có đủ đạo đức, thời gian, năng lực và nhiệt huyết để lo cho việc Loan Báo Tin mừng.
Giáo xứ là đơn vị cụ thể nhất trực tiếp đào tạo giáo dân mình trở nên chiến sĩ truyền giáo.
7. Chủng viện và các dòng tu
Trong Ratio đào tạo Linh mục năm 2016 nói: “Ý tưởng căn bản là làm sao các chủng viện có thể đào tạo được những người môn đệ truyền giáo “say mê” đối với Thầy, những mục tử mang “mùi chiên”, những người sống giữa đàn chiên để phục vụ và mang đến cho đàn chiên lòng thương xót của Thiên Chúa (phần dẫn nhập, 3).
Như thế, cần cố gắng giúp các chủng sinh và tu sĩ học viện biết quan tâm tới việc truyền giáo, cho họ cơ hội thực tập nhiều nơi nhiều xứ khác nhau về truyền giáo để quan sát học hỏi và có kinh nghiệm. Đưa các cha đạo đức thánh thiện đứng tuổi có nhiệt huyết truyền vào chủng viện và học viện chia sẻ để làm gương cho các thầy… Vì đây là những nhà truyền giáo chuyên biệt xuất sắc ưu tuyển của Hội thánh nên cần được chăm sóc đào tạo về truyền giáo kỹ càng.
Các cha trẻ mới du học về nên cho đi thực tập truyền giáo ở xứ nghèo vùng sâu xa một khoảng thời gian trước khi vào chủng viện làm cha giáo. Để các ngài có kinh nghiệm truyền giáo để chia sẻ cho các thầy. Khi đã thấm nhiệt huyết truyền giáo thì những bài giảng dạy của các ngài cũng thuyết phục và mạnh mẽ hơn.
8. Cha xứ
Trong Huấn thị “Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo Tin mừng của Hội thánh”, của Bộ Giáo sĩ, ngày 20 tháng 7 năm 2020 ghi rõ: “Chủ thể của việc truyền giáo và hoạt động Loan báo Tin Mừng của Hội Thánh luôn là toàn thể Dân Thiên Chúa” (số 27). Bộ Giáo luật nhấn mạnh rằng Giáo xứ không được xác định là một tòa nhà hay một chuỗi các công trình kiến trúc, nhưng đúng hơn là một cộng đồng tín hữu cụ thể, nơi Cha xứ là mục tử đích thực.
Mọi hoạt động hàng ngày của Giáo hội hầu như diễn ra tại đơn vị cơ sở địa phương, tức là giáo xứ. Cha xứ phải là người chịu trách nhiệm chính về việc truyền giáo của giáo xứ. Cha xứ cần liên kết theo hướng truyền giáo của Giáo Phận và bàn thảo với hội đồng mục vụ kế hoạch loan báo Tin mừng: đào tạo nhân sự, chương trình thực hiện, cá nhân hội đoàn… của giáo xứ từng năm, từng tháng, từng kỳ, từng khóa, viết thành văn bản và thông báo rộng rãi cho giáo dân cùng tham gia thực hành, cuối khóa cuối năm đúc kết lại kế hoạch những gì làm được những gì chưa làm được, nguyên nhân và cách khắc phục… nộp lại cho Ban Loan báo Tin mừng của giáo phận để giáo phận có thể đúc kết rút kinh nghiệm học hỏi và trao đổi chia sẻ các xứ khác để tìm ra cách tốt nhất cho giáo xứ và cả giáo phận.
Cha xứ phải theo sát đồng hành cùng truyền giáo với giáo dân, không khoán trắng, không lấy lý do bận nhiều việc. Ưu tiên trước hết của cha xứ phải là cùng giáo dân truyền giáo chứ không chỉ là việc quản trị họ đạo, xây cất…
– Gây ý thức cho mọi người giáo dân trong giáo xứ biết truyền giáo là trách nhiệm chung của tất cả mọi người.
– Tổ chức các buổi cầu nguyện, chầu Thánh Thể, học hỏi chia sẻ Lời Chúa, lẫn chuỗi… hoàn toàn theo chủ đề loan báo Tin mừng.
– Tạo điều kiện hướng dẫn giáo dân thăm viếng truyền giáo, tức là thăm viếng để đem Chúa đến và giới thiệu Chúa, chứ không chỉ thăm xã giao.
– Tổ chức các lớp huấn luyện đào tạo tín hữu loan báo Tin mừng cấp độ giáo xứ…
Khuyến khích động viên giáo dân sống chứng nhân thân tình với hàng xóm đồng nghiệp… đó là đang truyền giáo.
Phải dành tài chính của giáo xứ cho hoạt động loan báo Tin mừng này.
9. Giám mục
Ad Gentes số 38: “Giám mục và giáo phận của mình kết thành một thực thể duy nhất, vì thế, khi cổ võ, phát động và điều hành công cuộc truyền giáo trong giáo phận, Giám mục bày tỏ và có thể nói là hữu hình hoá tinh thần cũng như nhiệt tâm truyền giáo của đoàn Dân Chúa, nhờ đó toàn thể giáo phận đều là những người truyền giáo”.
Đức Giám mục phải là người chịu trách nhiệm chính về việc truyền giáo của giáo phận. Các giám mục nên dành thời gian ưu tiên chú trọng theo sát việc truyền giáo, cùng bàn lên kế hoạch lắng nghe và đưa ra hướng dẫn kế hoạch cho việc truyền giáo của giáo phận.
Các ngài là đầu, vị lãnh đạo, nếu đầu không ủng hộ thì bề dưới không làm gì được. Nếu các ngài chỉ giao phó khoán đứt cho các cha thì chắc chắn việc truyền giáo nơi giáo phận đó cũng có thể chỉ làm cho có lệ.
Có chương trình truyền giáo chung cho cả giáo phận làm theo.
Mở lớp đào tạo nhân sự truyền giáo cấp giáo phận
Tổ chức liên kết mạng lưới truyền giáo của giáo phận với các giáo xứ, các hội đoàn…
Chú trọng đào tạo truyền giáo cụ thể cho linh mục tu sĩ chủng sinh của giáo phận…
Không cần xây quá nhiều nhà thờ, cần quan tâm hỏi thăm gần gũi động viên khuyến khích các linh mục tu sĩ truyền giáo
Giáo phận cũng nên dành phần lớn ngân quỹ cho truyền giáo và ủng hộ đặc biệt các chương trình truyền giáo và nhất là cho các xứ giáo điểm truyền giáo nghèo vùng sâu xa…
10. Vượt qua giáo sĩ trị
Tông huấn Evangelii Gaudium số 102 viết: “Trong những trường hợp khác, lý do là vì trong các giáo hội địa phương của họ, người ta đã không dành chỗ để họ lên tiếng và hành động, do một chủ trương giáo sĩ trị thái quá khiến họ không được tham gia vào việc làm các quyết định”.
Giáo sĩ trị là một cản trở nghiêm trọng cho hiệp hành và truyền giáo, vì nó làm giảm vai trò của giáo dân và biến Giáo hội thành cơ cấu khép kín. Đức Phanxicô cảnh báo: “Đủ rồi, đó thực sự là một vụ bê bối. Chủ nghĩa giáo sĩ trị là một roi đòn, một tai họa, một hình thức trần tục làm vấy bẩn và làm hư hỏng khuôn mặt Hiền Thê của Chúa, biến dân thánh thiện và trung tín của Thiên Chúa thành nô lệ”.
Một thực trạng rất tế nhị nhưng thực tế là đâu đó Hội thánh Việt Nam còn nhiều lỗ hỗng trong việc quản trị “độc tài”, nhất là thiếu lắng nghe, có thể nói là nặng cơ cấu, trên luôn đúng, dưới nói sao cũng sai và còn cho là hỗn, không vâng lời. Cấp độ nào cũng có. Điều này không chỉ cản trở việc “vận hành” của Giáo hội mà còn cản trở cả sự tiến triển thiêng liêng của người Kitô hữu. Chúng ta thấy nhiều người đi lễ, nhưng chúng ta đâu thấy biết bao người vì chúng ta mà xa lìa niềm tin.
Vì thế, Đức Thánh Cha mới kêu gọi sống hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ, không bỏ xót ai, lắng nghe đối thoại và tôn trọng khác biệt.
Người giáo dân thụ động là do giáo sĩ không lắng nghe họ, người giáo dân không dám làm, không sáng kiến là do giáo sĩ trị độc tài quá mạnh. Cuối cùng giáo sĩ làm hết, giáo dân ngồi chờ lệnh, chỉ đâu đánh đó. Nằm in cho an toàn. Như thế, tỷ lệ người có đạo Công giáo ở Việt Nam vẫn mãi 7%.
Cần:
Tạo các không gian đối thoại mục vụ giữa giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân, để mọi người cùng chia sẻ trách nhiệm truyền giáo.
Cần có những buổi sám hối chung giữa giáo sĩ và giáo dân. Cần lắng nghe và khiêm tốn hạ mình. Cần hiệp hành đối thoại giữa các thành phần dân Chúa.
Văn kiện Chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục về tính hiệp hành rất đề cao sự tham gia vào các tiến trình đưa ra quyết định của những người đã được rửa tội, cũng như hoạt động giải trình và đánh giá, diễn ra thông qua các cơ cấu thể chế, trước hết là qua tất cả các tổ chức tham gia ở cấp Giáo hội địa phương theo như Giáo luật đã quy định. Các tổ chức tham gia là: Công nghị giáo phận (x. Giáo luật, điều 466), Hội đồng Linh mục (x. Giáo luật, điều 500, § 2), Hội đồng Mục vụ Giáo phận (x. Giáo luật, điều 514, § 1), Hội đồng Mục vụ Giáo xứ (x. Giáo luật, điều 536), Hội đồng Kinh tế Giáo phận và Hội đồng Kinh tế Giáo xứ (x. Giáo luật, điều 493 và 537). Theo Văn kiện Chung kết: “Các thành viên của các tổ chức này tham gia dựa trên nhiệm vụ của họ trong Giáo hội và trên các trách nhiệm và khả năng riêng của họ (như đặc sủng, thừa tác vụ, kinh nghiệm, thẩm quyền, v.v.). Mỗi tổ chức này đều tham gia vào việc phân định cần thiết cho việc loan báo Tin mừng đã được hội nhập văn hóa, cho sứ vụ của cộng đoàn trong môi trường của nó và cho chứng tá của những người đã được rửa tội. Mỗi tổ chức ấy cũng góp phần vào tiến trình ra quyết định theo các phương cách đã được thiết lập và nó cũng tạo nên một không gian cho việc giải trình và đánh giá, mà chính nó cũng phải giải trình và đánh giá hoạt động của mình… Một Giáo hội hiệp hành được đặt nền tảng không phải trên danh nghĩa của các tổ chức tham gia này, mà là trên thực tại, hiệu năng và sự sinh động của chúng, trên cách chúng vận hành phù hợp với các quy định giáo luật hoặc các thông lệ chính đáng, cũng như trên sự tôn trọng các quy chế và các điều lệ ràng buộc chúng.”
Hiệp hành đòi hỏi toàn thể Dân Chúa cùng lắng nghe và phân định, nhưng giáo sĩ trị triệt tiêu sự tham gia này. Vì thế, chỉ khi vượt qua não trạng giáo sĩ trị và xây dựng một nền văn hóa cộng tác, Giáo hội mới có thể thực sự hiệp hành và trở thành chứng tá Tin mừng sống động.
Tạm kết
Truyền giáo là việc của Chúa. Được mời gọi tham gia vào việc của Chúa là một vinh dự lớn lao: Làm việc của Chúa, làm việc cho Chúa và làm việc với Chúa. Nhưng vấn đề là việc nào cũng là việc của Chúa. Vậy cần phải biện phân đâu là ưu tiên nhất, đâu là quan trọng nhất, đâu là cần thiết nhất với ta lúc này. Có thể nói giám Mục, linh mục, tu sĩ… là những thành phần “lãnh đạo” ưu tuyển được dành riêng để làm việc cho Chúa và việc của Chúa. Nhưng việc của Chúa không chỉ là “quản trị họ đạo” theo cơ cấu có sẵn, không chỉ là ban bí tích cao cả, không chỉ là chăm sóc “chiên ngoan hiền” nhưng là “Anh em hãy đến với chiên lạc nhà Israel” (Mt 10,1-7) phải “đi ra vùng ngoại biên” (Evangelii Gaudium, EG) và “Thầy còn những chiên khác không thuộc ràn này” (Ga 10,16)…
Bao nhiêu bài giảng, bao nhiêu chương trình, bao nhiêu đại hội, bao nhiêu khẩu hiệu, nhưng mấy chục năm nay tỷ lệ người công giáo cũng chỉ có vậy, nhiều nơi còn giảm đi. Giáo dân Việt Nam tốt, hiền lành và vâng lời. Cho nên nếu có người chỉ dạy hướng dẫn đồng hành tin tưởng và trao quyền khuyến khích động viên, việc truyền giáo sẽ có thể có kết quả tốt đẹp hơn. Vì ơn Chúa luôn có đó. Vì truyền giáo là việc của Chúa nên chắc chắn sẽ thành công.
Nhưng nếu ngày nào đó mọi người còn quá bận rộn chưa nhiệt huyết quan tâm sâu xát tới việc truyền giáo, còn bận rộn quá chiều chuyện, chưa đặt truyền giáo lên ưu tiên hàng đầu, chưa thực sự hạ mình lắng nghe hiệp hành cho đủ thì con thuyền truyền giáo vẫn ì ạch nặng nề và sẽ bị nghiền nát chết nghẹt giữa hàng ngàn công việc mục vụ bộn bề khác.
Tháng Mười là tháng truyền giáo, tháng Đức Mẹ, xin Mẹ là Nữ Vương truyền giáo giúp đỡ chúng ta.
Lm. Micae Nguyễn Khắc Minh
Để lại một phản hồi