I. Tóm tắt phần thứ nhất của Tông chiếu
Tông chiếu Năm Thánh ngoại thường về Lòng Thương Xót gồm 25 số. ĐTC chọn chủ đề cho văn kiện này là “Khuôn mặt của Lòng Thương Xót”. Khi nói như vậy, ngài mở đầu bằng chính Chúa Giê-su Ki-tô là khuôn mặt thương xót của Chúa Cha vì ai thấy Ngài là thấy Cha (x. Ga 14,9) mà Cha lại “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4) (n°1).
ĐTC đã giải thích về sự phong phú của cụm từ “Lòng Thương Xót”. Cụm từ này diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi, bản chất của Thiên Chúa, của con người và tương quan giữa Thiên Chúa với con người (n°2).
Ngài nêu ra lý do mở Năm thánh Lòng Thương Xót: để mọi người tin làm chứng mạnh mẽ và hữu hiệu hơn về Lòng Thương Xót của Chúa Cha mà lúc này là thời điểm cần thiết (n°3§1).
ĐTC cho biết tại sao khai mạc vào lễ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội với nghi thức mở Cửa Thánh, vì Mẹ Ma-ri-a giữ vai trò khởi đầu lịch sử cứu độ, khởi đầu cho ơn tha thứ của Thiên Chúa. Việc mở Cửa Thánh giống như mở Cửa Lòng Thương Xót để ai đi vào thì sẽ được “an ủi, được tha thứ và hy vọng” (n°3§2).
Chúa nhật thứ ba mùa Vọng, tất cả các Cửa Thánh của những nhà thờ… đã được ban phép sẽ mở để người hành hương đón nhận ân sủng và canh tân đời sống thiêng liêng. Năm Thánh không chỉ ở Rô-ma mà cả ở các Giáo Hội hiệp thông với Giáo Hội Rô-ma như dấu chỉ hiệp thông Hội Thánh (n°3§3).
Chọn ngày 8 tháng 12 cũng là nhắc đến ngày kết thúc Công Đồng Va-ti-ca-nô II tròn 50 năm. Đây là lúc loan báo Tin mừng theo cách thức mới trong đó Giáo Hội trở nên dấu chỉ tình Cha và mọi ki-tô hữu cần làm chứng mạnh mẽ về đức tin và nhiệt thành hơn (n°4§1).
Trong lời khai mạc Công đồng, thánh Giáo Hoàng Gio-an XXIII cũng nhắc đến cụm từ “Lòng Thương Xót” này, ngài ví nó như phương thuốc chữa trị bệnh tật. Đến lượt chân phước Giáo Hoàng Phao-lô VI, dù không có cụm từ trên nhưng ngài cũng nói đến kết quả của Công đồng là nguồn bác ái để chữa trị nhân loại có nhiều bệnh tật và đau khổ (n°4§2).
Với tinh thần biết ơn, Năm Thánh này được mở ra để Dân Chúa chiêm ngưỡng khuôn mặt của Lòng Thương Xót. ĐTC cầu xin Chúa Thánh Thần giúp Giáo Hội và mọi ki-tô hữu cộng tác vào công cuộc cứu độ của Đức Ki-tô (n°4§3).
Năm Thánh kết thúc ngày 20 thánh 11 năm 2016, nhằm lễ Chúa Ki-tô, Vua Vũ trụ. Khi tỏ lòng biết ơn vì Năm Thánh, Giáo Hội, nhân loại và cả vũ trụ được phó thác cho Thiên Tính của Chúa Ki-tô. Tất cả đều được hưởng Lòng Thương Xót như dấu của Nước Chúa đã hiện diện giữa chúng ta (n°5§1).
ĐTC trích dẫn lời của thánh Tô-ma A-qui-nô và lời cầu nguyện mở đầu của Chúa nhật 26 thường niên để chỉ ra sức mạnh của Lòng Thương Xót Chúa luôn hiện diện trong lịch sử nhân loại (n°6§1).
Ngài dẫn chúng ta trở về Cựu ước, nơi đó Lòng Thương Xót được diễn tả bằng những hành vi cụ thể (x. Tv 145, 7-9) và với những sắc thái đa dạng của ngôn từ: kiên nhẫn, yêu mến, khoan hồng, tha thứ v.v. (n°6§2).
Đức Phan-xi-cô đã giải thích câu Thánh vịnh 135 quen thuộc để chỉ ra rằng cái nhìn thương xót của Chúa Cha không giới hạn trong lịch sử cứu độ mà còn trải rộng mãi mãi. Do đó, Thánh vịnh này được đọc trong các dịp lễ quan trọng nhất của dân Do thái (n°7§1).
Từ Thánh vịnh này, ĐTC đã nối kết giữa Cựu ước với Tân ước qua cử chỉ hát Thánh vịnh của Chúa Ki-tô vào ngày lễ Vượt qua, ngày trước khi Ngài chịu chết để mở ra ánh sáng Lòng Thương Xót cho nhân loại. Vì thế, mọi ki-tô hữu chúng ta cũng phải cầu nguyện bằng điệp khúc “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (n°7§2).
Theo ĐTC, khuôn mặt Lòng Thương Xót của Chúa Giê-su là tình yêu của cả Ba Ngôi, là tình yêu viên mãn, hữu hình và chạm tới được bởi vì chính Ngôi Con làm người đã hoàn tất mọi hành vi bằng tình yêu, trong tình yêu và qua tình yêu. Vì thế, “trong Ngài, tất cả đều diễn tả Lòng Thương Xót” (n°8§1).
Sau khi lược lại những cử chỉ tình yêu thương xót của Chúa Giê-su trong ba Tin mừng nhất lãm: chữa bệnh, trừ quỉ, cho ăn, phục sinh kẻ chết, chọn các tông đồ…, ĐTC nhắc lại bài chú giải của thánh Bê-đa đáng kính về việc Chúa Giê-su nhìn Mát-thêu với tình yêu thương xót, từ đó ĐTC đã chọn khẩu hiệu cho đời giám mục và giáo hoàng của mình: thương xót và tuyển chọn (n°8§2).
Chuyển sang một số mới, ĐTC nêu lên ba dụ ngôn gây ấn tượng về Lòng Thương Xót: chiên lạc, đồng bạc bị mất và người cha có hai con trai (x. Lc 15, 1-32). Trong bản tính cha, Thiên Chúa luôn vui và nhất là tha thứ. Từ đó, như cốt lõi của Tin mừng và của đức tin, Lòng Thương Xót tỏ ra sức mạnh chiến thắng, tỏ niềm an ủi khi tha thứ (n°9§1).
Tiếp đến ngài nhắc đến hai dụ ngôn khác: tha thứ mấy lần? (x. Mt 18, 21-22) và con nợ bất lương (x. Mt 18, 23-33), nhưng hai dụ ngôn này được ĐTC nhắm để nhấn mạnh về tha thứ của con người. Tha mãi mãi và phải tha như Chúa tha cho ta, nếu không Cha trên trời cũng đối xử với ta như vậy (x. Mt 18, 35) (n°9§2).
Để tỏ ra là những người con đích thực của Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, chúng ta cũng phải sống Lòng Thương Xót bằng việc tha thứ để có hạnh phúc. ĐTC mời gọi thực thi hai lời Kinh Thánh: “Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4, 26) và “Phúc thay ai thương xót, vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5, 7). Mối phúc này phải thực thi hơn trong Năm Thánh (n°9§3).
Dựa vào Kinh Thánh, ĐTC khẳng định Lòng Thương Xót là trách nhiệm của Thiên Chúa, luôn là hành động, là thái độ thường ngày, cụ thể, hữu hình của Ngài. Từ đó, con cái Thiên Chúa cũng nhận thấy trách nhiệm của mình đối với nhau, như “cùng bước sóng” với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vậy (n°9§4).
Như cột trụ hỗ trợ Giáo Hội, Lòng Thương Xót phải được trao cho nhân loại vì ngày nay con người sống với nhau chỉ bằng công bằng, ít tha thứ. Cho nên, đã đến lúc Giáo Hội phải công bố về sự tha thứ là “sức mạnh phục sinh trong đời sống mới”, gánh lấy yếu đuối và khó khăn của anh chị em mình (n°10§1).
Ở số 11, Đức Phan-xi-cô trích lại số 2 của tông huấn Thiên Chúa giàu lòng thương xót của Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II để cho thấy rằng những lời này sau 35 năm vẫn còn nguyên vẹn: thực tại xã hội và con người không thay đổi, vẫn thờ ơ với Lòng Thương Xót Chúa. Do đó, phải tiếp tục kêu xin Lòng Thương Xót (n°11§1).
Trích lại số 15 tông huấn của Đức Gio-an Phao-lô II cho chúng ta thấy rằng Đức Phan-xi-cô tiếp nối lời cầu xin Lòng Thương Xót của vị tiền nhiệm đáng kính, nhưng bằng cách thức mở Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa ngõ hầu gây tiếng vang lớn, đáp ứng sứ mệnh và bản chất của Giáo Hội “vừa là người cho và là người nhận” Lòng Thương Xót (Gio-an Phao-lô II, Dives in misericordia, n°2) (n°11§2).
Trong thời đại mới, ĐTC muốn Hiền Thê phải đến với mọi người, rập theo tinh thần của Chàng Rể là Đức Ki-tô. Hiền Thê cần tỏ ra sự mới mẻ của phúc âm hóa, của mục vụ. Vì thế, cần có sự nhiệt tâm, ngôn ngữ, cử chỉ của Lòng Thương Xót để đưa họ về với Chúa Cha (n°12§1).
Với vai trò yêu thương này, Giáo Hội luôn tha thứ và cho đi bản thân mình. Do đó, ở đâu có Giáo Hội, có ki-tô hữu, ở đó có Lòng Thương Xót của Chúa Cha (n°12§2).
Trong Năm Thánh, ĐTC muốn chúng ta sống Lời Chúa, mà cụ thể là sống Lòng Thương Xót như Chúa Cha. Để làm được điều này, nên biết giá trị của thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa, để chiêm ngắm Lòng Thương Xót Chúa và để Lòng Thương Xót trở nên cách sống của mình (n°13§1).
Nói đến Năm Thánh là nói đến hành hương. Hành hương thì qua Cửa Thánh. Qua Cửa này tức là mời gọi sám hối để Lòng Thương Xót Chúa bao bọc và để có lòng thương đối với người khác như Chúa Cha đối xử với chúng ta (n°14§1).
ĐTC trích lời Chúa Giê-su trong Tin mừng Lu-ca 6, 37-38 để mời gọi chúng ta sống những giai đoạn của hành hương. Đó là: không xét đoán, không kết án, tha thứ và cho đi. ĐTC nêu ra bản chất cũng như tác hại của xét đoán và kết án. Tránh xa hai nết xấu này, cộng với tinh thần tha thứ và cho đi thì Lòng Thương Xót mới được đầy đủ (n°14§2).
Đến số 14 này, chúng ta thấy được khẩu hiệu của Năm Thánh, đó là: Thương Xót như Chúa Cha. Bản chất Lòng Thương Xót của Thiên Chúa như thế nào, ĐTC đã chỉ cho chúng ta ở đoạn này. Thế nên, hằng ngày chúng ta cầu xin: “Lạy Chúa Trời, xin đến giúp con; Lạy Chúa, xin mau phù trợ” (Tv 69, 2). Một khi đã được trợ giúp, thì chúng ta cũng trở thành người thương giúp kẻ khác (n°14§3).
Năm Thánh được mở ra vì một thế giới hiện đại đang rơi vào thảm kịch do sự chênh lệch giàu nghèo. Giáo Hội chúng ta phải làm tất cả khả năng để xoa dịu, băng bó vết thương những anh chị em bị mất phẩm giá. Tay ta trong tay họ để sưởi ấm tình huynh đệ (n°15§1).
ĐTC nhấn mạnh đến những việc làm thương xót thể xác và tinh thần. Về vật chất, ngài nêu ra những việc làm theo lời dạy của Chúa Giê-su: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống… Về tinh thần, khuyên bảo, dạy dỗ, an ủi… (x. Mt 25, 31-45) (n°15§2).
ĐTC đặt ra những câu hỏi liên quan đến các việc làm trên để chất vấn mỗi người. Những người cần được giúp đỡ là hiện thân của Chúa Giê-su. Đoạn này, ngài kết luận bằng lời của thánh Gio-an Thánh Giá: “Kết thúc cuộc đời, chúng ta sẽ bị phán xét dựa trên tình yêu” (Những ý và châm ngôn thiêng liêng, §56) (n°15§3).
II. Tóm tắt phần hai của Tông chiếu
ĐTC mong muốn trong mùa Chay của Năm Thánh, cần suy niệm các trang Kinh Thánh về Lòng Thương Xót của Chúa Cha, trong đó ngài trích dẫn lời của Mi-ca, ngôn sứ này kêu xin Chúa xóa tội và tỏ lòng thương xót (Mk 7, 18-19) (n°17§1).
Từ xa xưa trong thời Cựu ước, Thiên Chúa đã khích lệ dân riêng thi hành lòng thương xót như là cầu nguyện, ăn chay và bác ái. Phần thưởng Chúa cho sẽ là vô tận (x. Is 58,6-11) (n°17§2).
Kinh nghiệm “24 giờ cho Chúa” vừa qua đã làm cho ĐTC thấy rõ hiệu quả, cho nên trong Năm Thánh này, ngài tiếp tục khích lệ tất cả các giáo phận tiếp tục thực thi để mọi người, nhất là người trẻ trở về với Chúa, tìm lại ý nghĩa cuộc sống, hưởng ơn bình an nội tâm qua bí tích Hòa giải, như Lòng Thương Xót lớn lao của Thiên Chúa (n°17§3).
Ở đoạn này, ĐTC nói về linh mục giải tội. Họ là dấu chỉ Lòng Thương Xót của Cha, nhưng trước tiên họ cũng phải sám hối. Họ phải là tôi tớ trung thành của ơn tha thứ. Họ còn phải đi tìm những “người con hoang đàng” ở xa và bất hạnh. ĐTC kết luận: khắp nơi và ở mọi hoàn cảnh, các linh mục này luôn là dấu chỉ trước tiên của Lòng Thương Xót (n°17§4).
Cũng trong mùa Chay Năm Thánh, ĐTC có một sáng kiến mới: gửi các thừa sai của Lòng Thương Xót ra đi. ĐTC cho biết căn tính và quyền năng của những người này được ban. Ngài ước mong họ sống tâm tình của Phao-lô: “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người” (Rm 11, 32) và mong họ sống như thế khi nhìn lên Chúa Giê-su, “Vị thượng phẩm thương xót và đáng tin cậy” (Dt 2, 17) (n°18§1).
Sau khi kêu gọi các anh em giám mục đón tiếp họ, ĐTC mong các giáo phận có những sáng kiến “sai đến với dân”. Ngài cũng mong bí tích Hòa giải của các thừa sai cũng như các mục tử đem lại niềm vui và ân sủng của ơn tha thứ, đặc biệt trong mùa Chay (n°18§2).
Với ước mong hết mọi người được tha thứ, ĐTC kêu gọi những người xa rời ân sủng Chúa vì những tội phạm có tổ chức của họ: hãysám hối. Ngài nói cho họ về mối nguy hại của tiền bạc. Sự xét xử của Thiên Chúa không để thoát một ai (n°19§1).
Bên cạnh các tổ chức tội phạm, ĐTC kêu gọi những kẻ tham nhũng sám hối. Tội này cám dỗ hết mọi người. Ngài phân tích về tác hại của tham nhũng. Ngài nói cho mọi người hãy cảnh giác vì cám dỗ này (n°19§2).
Với hai tội lớn trên, cùng với nhiều tội khác nữa, ĐTC nói cho mọi người biết rằng đây là lúc cần thay đổi đời sống, đồng thời là lúc phải lắng nghe những người vô tội cầu cứu. Thiên Chúa luôn lắng nghe, bản thân ngài, các giám mục và linh mục cũng đang lắng nghe (n°19§3).
Giống như tông huấn Lòng Thương Xót Chúa (Dives in misericordia) của Đức Gio-an Phao-lô II, Đức Phan-xi-cô nêu lên mối tương quan giữa công bình và lòng thương xót. Chúng không mâu thuẫn nhưng là hai mặt của một thực tại đạt đến tình yêu viên mãn. Phần còn lại của đoạn này, ĐTC giải thích về sự công bình: công bình pháp lý và công bình của Thiên Chúa. Ngài kết luận: trong Kinh Thánh, công bình chủ yếu được quan niệm như là phó thác cho thánh ý Chúa (n°20§1).
ĐTC giải thích trong đoạn này về vấn đề công bình, lề luật, đức tin và Lòng Thương Xót. Chúa Giê-su đề cao đức tin và Lòng Thương Xót, tức là đề cao việc tìm kiếm tội nhân và phẩm giá con người (n°20§2).
Nếu Chúa Giê-su nói Ngài muốn Lòng Thương Xót (x. Mt 9, 13), thì đó cũng là gợi hứng từ ngôn sứ Hô-sê (x. 6,6). Ngài vượt ra khỏi lề luật và chọn Lòng Thương Xót như là “chiều kích căn bản của sứ mệnh” để chia sẻ với những ai coi họ là tội nhân đối với lề luật (n°20§3).
ĐTC nên ra tấm gương của Phao-lô. Từ khi sám hối, ông định nghĩa rằng công bình là tin Đức Ki-tô chứ không phải là giữ luật (x.Gl 2, 16). Đức tin ban cho chúng ta Lòng Thương Xót có giá trị công chính hóa. Vậy, công bình của Thiên Chúa là giải phóng các nô lệ của tội và hậu quả của tội. Công bình của Thiên Chúa là sự tha thứ của Ngài (x. Tv 50, 11-16) (n°20§4).
Như đã nói ở số 20§1, Lòng Thương Xót không đi ngược với công bình, nhưng chứng tỏ thái độ của Thiên Chúa với tội nhân. ĐTC kể lại kinh nghiệm của thời ngôn sứ Hô-sê, thời bi đát nhất của dân Do thái. Thiên Chúa không bỏ rơi họ, cho nên Hô-sê đã thuật lại lời Chúa: “Ta không đến để tiêu diệt” (Hs 11, 9). Thiên Chúa giận chỉ một chút nhưng Lòng Thương Xót thì đời đời (n°21§1).
Công bình theo lề luật rất hạn chế như ĐTC nói ở đây. Thiên Chúa vượt trên nó bằng Lòng Thương Xót và tha thứ, nhưng Thiên Chúa không loại trừ công bình. Dựa vào thư Rô-ma 10, 3-4, ĐTC giải thích: công bình của Thiên Chúa là ân sủng nhờ cái chết và phục sinh của Đức Giê-su (n°21§2).
Sang số mới này, ĐTC giải thích tầm quan trọng của ân xá trong Năm Thánh. Ngài nói rằng tội của chúng ta được tha nhưng dấu vết còn tồn tại, gây ra những mâu thuẫn trong thái độ và tư tưởng con người. Lòng Thương Xót trở thành ân xá, sẽ giải thoát họ khỏi những hậu quả của tội, giúp họ sống bác ái, lớn lên trong tình yêu thay vì tái phạm tội lỗi (n°22§1).
Qua Bí tích Thánh Thể và trong Giáo Hội, sự hiệp thông các Thánh được thực hiện nhằm giúp các tín hữu nên thánh nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của các Ngài. Đồng thời, ân xá mà Giáo Hội ban cho, nhờ cuộc khổ nạn và tình yêu của Chúa Ki-tô cũng là để tha thứ đến tột cùng hậu quả của tội. Do đó, ĐTC kêu gọi sống Năm Thánh khi xin Chúa Cha tha thứ mọi tội lỗi và kéo dài ân xá của Lòng Thương Xót (n°22§2).
Giá trị của Lòng Thương Xót cũng đặt Giáo Hội trong tương quan với Do thái giáo và Hồi giáo, bởi vì hai tôn giáo này cũng coi Lòng Thương Xót là một trong những đặc tính giá trị nhất của Thiên Chúa. ĐTC nhắc đến Do thái giáo trong thời Cựu ước với các trang Kinh Thánh mô tả họ sống Lòng Thương Xót. Còn Hồi giáo thường ca ngợi Thiên Chúa Thương Xót và Khoan Dung (n°23§1).
Khi sống Lòng Thương Xót trong Năm Thánh, ĐTC có 4 ước mong: gặp gỡ các tôn giáo và truyền thống tôn giáo quí báo khác; đối thoại để biết và hiểu hơn; tránh khép kín và khinh chê; và sau cùng là loại trừ bạo lực và phân biệt (n°23§2).
Theo thông lệ của các văn kiện, Đức Ma-ri-a luôn được nhắc đến. Nếu như Năm Thánh khai mạc vào lễ Mẹ Vô Nhiễm thì kết thúc tông chiếu, ĐTC kêu gọi tâm trí chúng ta hướng về Mẹ của Lòng Thương Xót. Ngài xin Mẹ dịu dàng dõi nhìn chúng ta trong Năm Thánh, nhằm giúp mọi người tái khám phá niềm vui của tình thương Thiên Chúa (n°24§1).
ĐTC gọi Đức Ma-ri-a là “Khám Giao Ước” giữa Thiên Chúa và con người. Khi nhắc đến bài ca tạ ơn của Mẹ tại ngưỡng cửa nhà chị họ Ê-li-sa-bét, ĐTC cũng nói với chúng ta sống tâm tình này khi qua Cửa Thánh để hưởng hoa trái của Lòng Thương Xót (n°24§2).
Nếu Mẹ được nhắc đến sau biến cố truyền tin, thì đây, giờ phút cuối cùng của Con, Mẹ là nhân chứng của Lòng Thương Xót vô biên, qua lời tha thứ của Con cho những người không biết việc họ làm và liên kết hết mọi người lại. ĐTC mời gọi cầu xin với Mẹ bằng kinh Lạy Nữ Vương để Mẹ nhìn chúng ta với Lòng Thương Xót và giúp chúng ta chiêm ngưỡng Lòng Thương Xót, Chúa Giê-su, Con Mẹ (n°24§3).
Sau Mẹ, đến các Thánh và Chân phước, là những người đã biến Lòng Thương Xót thành sứ mệnh của đời họ. ĐTC nhắc đến thánh Faus-ti-na Ko-wals-ka, tông đồ của Lòng Thương Xót (n°24§4).
Một lần nữa ĐTC nhắc lại bản chất thương xót của Thiên Chúa. Tiếp đến, ngài nhắc đến sứ mệnh của Giáo Hội đối với Lòng Thương Xót vô hạn của Chúa (n°25§1).
Kết thúc Tông chiếu này, ĐTC bày tỏ ước mong Lời Chúa vang lên cách mạnh mẽ và đầy thuyết phục bằng lời nói và cử chỉ tha thứ, hỗ trợ, giúp đỡ, yêu thương; ước muốn Giáo Hội trao ban Lòng Thương Xót, luôn kiên nhẫn an ủi và tha thứ; ước muốn Giáo Hội nói thay cho mọi người với niềm tin tưởng : “Xin Chúa nhớ lại, tình thương mến của Ngài mãi mãi” (Tv 25,6) (n°25§2).
Tóm lại, sau khi lược qua 25 số của Tông chiếu, chúng ta đã thấy được : chủ đề Tông chiếu (x. n°1), chủ đề Năm Thánh (x. n°14), ý nghĩa của từ ngữ (x. n°2) và Cửa Thánh (x. n°3), lý do mở Năm Thánh (x. n°3), lý do chọn ngày khai mạc (x. n°3 và 4) và kết thúc (x. n°5).
ĐTC đi từ Cựu Ước (x. n°6 và 7) đến Tân Ước (x. n°7), trong đó đỉnh cao là Chúa Giê-su (x. n°8) với các lời giảng dạy của Ngài bằng dụ ngôn, bằng tha thứ (x. n°9). Về phần Giáo Hội và con cái Giáo Hội (x. n°10), ĐTC kêu mời hành động vì xã hội và con người hôm nay (x. n°11 và 12). Còn nhiều vấn đề giống như thời Đức Gio-an Phao-lô II (x. n°11), nhưng chính các ki-tô hữu cũng phải sống Lời Chúa trong Năm Thánh (x. n°13).
Với tinh thần hành hương của Năm Thánh (x. n°14), ĐTC muốn chúng ta hoán cải (x. n°14), muốn Giáo Hội phục vụ tha nhân – hình ảnh của Chúa-, bằng những việc làm của Lòng Thương Xót (x. n°15), theo tinh thần của Năm Hồng ân (x. n°16), đặc biệt trong mùa Chay, tiếp tục “24 giờ cho Chúa” như bằng chứng cụ thể để canh tân đời sống. ĐTC nhắc đến các linh mục giải tội (x. n°17).
ĐTC sẽ gửi các thừa sai ra đi. Ngài mong các sáng kiến cho Lòng Thương Xót (x. n°18), mong hết mọi người sám hối và được tha thứ (x. n°19); giải thích về công bình và Lòng Thương Xót (x. n°20 và 21); và nêu lên giá trị của ân xá (x. n°22).
Lòng Thương Xót Chúa liên quan đến hai tôn giáo quan trọng: Do thái và Hồi giáo. Nhân đây, ngài khích lệ tinh thần liên tôn với những ước mong (x. n°23).
Hãy cầu xin và noi gương Đức Mẹ cùng các Thánh (x. n°24) để chu toàn sứ mệnh Lòng Thương Xót. ĐTC kết thúc Tông chiếu với nhiều ước mong cho Giáo Hội (x. 25).
Lm. Vinhsơn Đinh Minh Thỏa