Người thợ xay lúa
Giám mục Botie Cao chưa làm Giám mục đến một ngày, nhưng ngài xứng đáng với tước hiệu đó. Căn cứ vào khả năng và nhiệt tình. Đức cha Havard Du đã chọn ngài làm Giám mục phó có quyền kế vị. Cha Cao nhận được giấy quyết định của Tòa Thánh đang khi ở trong tù, và vì thế chưa kịp thụ phong. Tên thường gọi của ngài là Dumoulin do bạn bè đặt (tiếng Pháp Dumoulin là máy xay lúa). Thế nhưng danh xưng Dumoulin đã đi vào lịch sử với hai tước hiệu vinh quang: Giám mục và tử đạo. Quả thật đối với Chúa, giá trị con người là nhân đức và thiện chí, dù thuộc giai cấp nào, mọi người đều được kêu gọi nên thánh.
Khi Thiên Chúa can thiệp
Phêrô Borie sinh ngày 20.02.1808, tại Beynat miền Correze, thân phụ tên là Guillaume Borie, thân mẫu là Rose Borie. Thế nhưng vì song thân làm nghề xay lúa, bạn bè hàng xóm quen gọi cậu là Dumoulin. Sinh trưởng trong một gia đình tầm thường như vậy, nên thuở bé Dumoulin có tính cẩu thả. Cha mẹ ép cậu vào chủng viện, cậu nghe theo nhưng chẳng hứng thú gì, và vi phạm kỷ luật liên tục. Cha giám đốc phải sử dụng nhiều hình thức xử phạt cũng chẳng làm cậu khá hơn được. Tuy vậy, Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời con người Ngài tuyển chọn.
Bất ngờ Borie bị một cơn sốt trầm trọng. Trên giường bệnh, cậu có cơ hội suy tư về đời mình. Một hôm đang khi đọc cuốn niên giám của trường Thừa Sai ghi lại cuộc đời các vị truyền giáo, cậu thấy một tia sáng chói lòa trong tâm hồn. Thế là như thánh Phaolô trên đường Damas xưa, cuộc đời cậu Borie từ nay chỉ lấy Đức Giêsu làm lẽ sống, từ đó cậu siêng năng đến gặp Chúa trong Thánh Thể. Và trong những giờ gặp gỡ ấy, cậu nghe như Ngài kêu gọi cậu lãnh nhận một sứ mạng cao quý hơn: Sứ mạng truyền giáo.
Trong những giây phút nguyện cầu linh thiêng ấy, Borie như thấy Chúa nói với mình về vùng Viễn Đông xa xăm, về những người ở đây còn chưa biết Chúa, về những thừa sai đã đến đó rao giảng Tin Mừng và hỏi cậu có yêu Ngài đủ để ra đi như thế không. Câu trả lời của Borie đã được chính cậu ghi lại trong một buổi tận hiến cho Đức Maria: “Lạy Mẹ của con ! Xin hãy tin nơi con, khi con trưởng thành, con sẽ hiến toàn thân con cho việc cảm hóa những người chưa tin. Xin Mẹ giúp con đi theo con đường và tinh thần của ơn kêu gọi đó. Xin cho con được đau khổ vì danh Đức Kitô, được đón nhận ngành lá tử đạo và đến bến vinh quang”.
Đức Mẹ như đã nhận lời cậu. Càng ngày Borie càng cương quyết hơn với giấc mơ truyền giáo. Để giấc mơ có thể thành hiện thực, cậu xin chuyển qua chủng viện Hội Thừa Sai Paris. Tại đây cậu kiên trì học tập, lãnh chức phó tế năm 1829, rồi năm sau thụ phong linh mục (21.11.1830). Ngày 01.12.1830, vị tân linh mục bắt đầu xuống tàu khởi hành đến Viền Đông. Thế nhưng vì bão tố phải dừng lại ở Macao khá lâu, ngày 15.5.1832, cha Borie mới tới được Việt Nam.
Vị tông đồ di trú.
Nửa năm sau, ngày 06.1.1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo trên toàn quốc. Các thừa sai bị lùng bắt gắt gao, lên phải di chuyển liên tục, nay nhà này, mai nhà khác. Ngày 24.03, cha Borie kể trong thư là “Tôi đã phải đổi chỗ ở đến 17 lần”. Nhưng năm sau, mỗi năm cha đổi chỗ khoảng hai đến sáu lần nữa. Nét đặc biệt của cha Dumoulin là hòa mình rất nhanh với phong tục địa phương. Ngày đầu tiên, cha đã có thể ăn nước mắn cách ngon lành (điều này rất khó với người Châu Âu), cha học tiếng Việt cách dễ dàng và phát âm khá chính xác. Nhờ bản tính bình dân vui tươi và hoạt bát, cha nhanh chóng lấy được cảm tình của các tín hữu và với cả lương dân nữa.
Năm 1836, khi đọc những điều vu cáo trong chiếu chỉ của vua Minh Mạng, cha Borie Cao định viết một lá thư điều trần, nhưng các thừa sai cản lại, vì nói là vô ích thôi. Năm 1838, sau khi giết thừa sai Jaccard Phan, vua Minh Mạng vẫn chưa thỏa mãn. Ông cho lệnh tiếp tục truy tầm cha Candalh Kim, Giám đốc chủng viện Di Loan. Ngày 02.7, khi quan quân bắt linh mục Khoa thì bắt được hai thày giảng Đức và Khang. Thày Khang lúc bị tra tấn quá đau, đã khai rằng có một thừa sai Châu Âu ở Bố Chính, thủ phủ của Nghệ An. Người bị tiết lộ tung tích đó là cha Cao, không phải là cha Candalh. Dựa vào lời thày Khang, quân lính bủa vây khắp vùng Bố Chính, bắt bớ nhiều tín hữu rồi đe dọa, tra tấn và dụ dỗ, để tìm cho ra chỗ ẩn của vị linh mục.
Giai đoạn này cha Cao không thể ở nhà nào được đến vài giờ, luôn luôn ngài phải di động. Các tín hữu có người muốn cho trú, nhưng lại sợ người khác khi bị đánh đập, sẽ tố cáo họ. Cuối cùng ngày 13.7, cha Cao đành xuống một thuyền nhỏ chèo ra khơi, chờ mong cuộc lùng bắt lắng dịu. Nhưng trời bỗng nổi cơn giông bão, dồn ghe của cha tấp vào bờ. Cha nghĩ rằng đây là dấu Chúa muốn mình ở lại, cha bỏ ghe trở lên đất liền, và ẩn núp dười một hố sâu có cây cối tre phía trên.
“Các anh đi tìm ai?”
Một thiếu nữ 16 tuổi bị bắt và bị tra khảo. Dù biết chỗ cha ẩn trốn, cô cắn răng chịu đựng, không tiết lộ điều mình biết. Nhưng bố cô không dằn lòng được khi thấy con mình bị đánh đập, đã chỉ chỗ cho lính đến chỗ nơi ẩn trốn của ngài. Dầu đang giữa đêm, quân lính cũng kéo nhau rất đông đi bắt vị thừa sai. Cha Cao nghe rất rõ tiếng chân của đám lính, biết rằng không thể thoát được nữa, cha liền lao lên và hỏi: “Các anh đi tìm ai ?”. Tất cả đám lính đều ngỡ ngàng trông thấy một bóng đen to lớn từ dưới đất chui lên, họ cứ tưởng là ma, nên hoảng sợ không dám hé môi. Lát sau, khi lấy lại bình tĩnh, biết là linh mục, họ yêu cầu cha ngồi xuống, và cha Cao nhẹ nhàng ngồi xuống. Ngài muốn bước vào cuộc hiến tế bằng một thái độ vâng phục hoàn toàn.
Thày Tự thấy cha bị bắt cũng vội chạy đến xưng là đệ tử của cha. Cha định không nhận, nhưng thày khẩn khoản: “Xin cha cho con theo cha đến cùng”. Cha Cao nghe thày xin thế thì xúc động, ngài tháo chiếc khăn quàng, xé một mảnh trao cho người môn sinh và nói: “Cầm lấy, con hãy giữ nó làm bằng chứng cho lời con đã hứa”. Thày Tự đã giữ mãi miếng vải đó trong những ngày tháng cùng bị giam với cha. Sau này, thày đã viết lại cuộc tử đạo đau thương của Tôn Sư mình. Và cuối cùng, với mảnh vải như kỷ vật giao ước, thày Tự đã theo gót người cha kính yêu: hy sinh mạng sống vì Đức Kitô ngày 01.7.1840.
Tại Đồng Hới, cha Cao phải ra tòa chung với cha Điểm và cha Khoa. Quan hỏi: “Đạo trưởng Cao, vua đã cấm Gia Tô. Nếu ông bước qua Thập Giá, ta sẽ thả ông về ngay”. Cha trả lời: “Thà tôi chết ngàn lần còn hơn”. Quan hỏi tiếp: “Tại sao ông không về nước mà giảng, ở đây làm gì để phải trốn tránh hết chỗ này đến chỗ khác?”. Cha đáp: “vua cấm đạo sau khi tôi đã đến nước này, từ đó vua cấm tàu Âu Châu cập bến Việt Nam thì làm sao tôi có thể về được”. Quan lại hỏi: “Ông đã ở nhà những ai ?”. Cha trả lời: “Tôi đã bị quan bắt, tôi xin chịu cực hình một mình tôi thôi”. Quan liền ra lệnh đánh cha 30 roi, lính nọc cha ra, đánh cho đủ số. Tuy rất đau đớn, cha Cao vẫn không kêu than một lời, quan hỏi ngài có đau không, cha đáp: “Tôi cũng bằng xương bằng thịt như ai khác, lẽ nào không đau. Nhưng mặc kệ, trước và sau trận đánh tôi vẫn thấy thoải mái”.
Quan đành giải cha về ngục, hôm khác, quan bắt cha chứng kiến cảnh tra tấn thày Tự, nhưng đến khi thẩm tra lại, ông gọi cha Cao ra đối chất:
– Tại sao ông cứng đầu thế?
– Thưa, câu hỏi của ngài tôi không trả lời khác hơn được.
– Đã vậy ngày mai ông sẽ chịu 100 roi.
– Thưa dù đánh 300 roi tôi cũng chịu, chỉ xin một điều là đừng hỏi tôi về dân chúng.
– Thế nếu ông phải ra mắt vua, đứng bên lò lửa cháy bừng, với những chiếc kìm nung đỏ sắt lóc thịt ông ra, liệu ông còn im lặng được không?
– Thưa, chừng đó sẽ biết, tôi không dám quá tự phụ về mình.
Biết không thể làm cha đổi ý, quan liền nghị án gởi về kinh đô. Cha Cao bị giam chung với hai cha Điểm và Khoa, ba vị linh mục hằng ngày cùng nhau đọc kinh Mân Côi và hát vang bài “Ave Maria Stella”: Kính chào Mẹ Maria là Sao Mai rực rỡ, xin chuyển cầu cho chúng con”. Mấy ngày đầu, vì chưa tìm ra tràng hạt, ba vị nhổ lông quạt để đếm kinh. Ba cha phó thác đời mình cho nữ vương các linh mục: “Như xưa Mẹ đã dâng Con yêu quý trong đền thờ, nay cũng xin hiến dâng chúng con trong cuộc tử đạo đầy hồng phúc”.
Trong những ngày tù tội, cha Cao nhận được văn thư Tòa Thánh gởi tới, đặt ngài làm Giám mục Giám mục hiệu tòa Acanthe và làm Đại diện Tông tòa coi sóc giáo phận Tây Đàng Ngoài, thay thế Đức cha Harvard Du. Thế nhưng, vì đang bị cầm tù, ngài không thể tiến hành nghi lễ thụ phong. Chức vụ đó sau này được trao cho cha Retordd Liêu.
Đường về Thiên Quốc
Ngày 24.11.1838, quan vào ngục tuyên đọc bản án xử trảm. Đức cha Cao yên lặng lắng nghe sắc chỉ của nhà vua, rồi nói với quan rằng: “Thưa quan, từ bé đến nay tôi chưa lạy ai, vì bên Âu Châu chúng tôi, đó là hành vi kính trọng chỉ dành cho Đấng Tối Cao. Nhưng điều tôi vừa nghe làm tôi quá vui mừng, xin được bày tỏ lòng tri ân của tôi theo kiểu Đông Phương”.
Nói xong, ngài quỳ xuống định lạy, nhưng viên quan quá xúc động, không thốt lên lời, vội cản ngăn ngài lại.
Lúc dẫn đi xử, Đức cha Cao đi dầu, cổ mang gông tay cầm tràng hạt, vừa đi vừa đọc kinh. Một viên quan khác, ít thiện cảm với người Công Giáo đi lại gần, hỏi Đức cha có sợ chết không. Ngài trả lời: “Tôi đâu phải là quân phiến loạn hay quân trộm cướp mà sợ chết. Tôi chỉ sợ một mình Thiên Chúa. hôm nay tôi chết, mai sẽ đến phiên ông”.
Nghe thế, viên quan thét lên: “Láo quá! Tát cho nó vài cái”. Nhưng không người lính nào tuân lệnh ông. Đức cha nói với quan: “Nếu lời đó làm phiền ông thì xin ông tha lỗi”.
Tại pháp trường Đồng Hới, hai cha Khoa và Điểm bị xử giảo trước. Đến lượt xử chém Đức cha cao, người lý hình rất kính phục ngài, phải uống rượu để lấy bình tĩnh, không ngờ vì quá ché, anh đã chém trật vào tai, hàm và vai Đức cha. mãi đến nhát thứ bẩy, đầu vị thừa sai mới lìa khỏi cổ. Thân xác ngài được chôn cất ngay tại chỗ, năm sau mới được các tín hữu cải táng về họ Hướng Phương.
Năm 1843, hài cốt Đức cha Cao được đưa về chủng viện Hội Thừa Sai Paris, đặt cạnh hài cốt thừa sai Kính, Phan.
Đức Lêo XIII suy tôn Giám mục Borie Cao lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Lm. Đào Trung Hiệu, OP