Trong thánh lễ, sau kinh Tiền tụng, tất cả cộng đoàn hát lên lời tung hô: “Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh”. Tại sao gọi là “Thiên Chúa các đạo binh”? Phải chăng Chúa có một quân lực hùng hậu, bách chiến bách thắng?
Lời chúc tụng “Thánh thánh thánh” được trích từ đoạn văn Isaia chương 6, câu 2-3, mô tả một thị kiến trong đền thờ: Thiên Chúa hiện ra với ông Isaia như là một hoàng đế lâm triều, ngự trên ngai, và các thần Sêraphim tung hô: “Thánh thánh thánh, Đức Chúa các đạo binh là Đấng thánh. Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa”. Ngay từ thế kỷ thứ nhất, lời chúc tụng này đã được du nhập vào phụng vụ Kitô giáo như chúng ta thấy vết tích nơi sách Khải huyền, chương 4 câu 8. Nguyên ngữ của cụm từ “Chúa các đạo binh” trong tiếng Hipri là “Yahweh Sabaoth”. Từ ngữ này xuất hiện 279 lần trong Cựu ước. “Thiên Chúa các đạo binh” có nghĩa là gì? Các tác giả đưa ra ít là ba lối giải thích:
(1) Thứ nhất, “Chúa các đạo binh” có nghĩa Chúa của quân lực Israel. Trong quan niệm cổ thời, mỗi dân tộc đều có một vị thần che chở. Vì thế trong các cuộc chiến đấu để bảo vệ quê hương hay để chiếm thêm đất đai, người ta cầu khẩn vị thần, xin ngài đích thân chỉ huy đạo quân nhà. Dĩ nhiên, các cuộc chiến thắng đều được quy cho ngài, nghĩa là nhờ có ngài mà quân ta đã thắng. Còn nếu mà thua trận thì người ta giải thích là hoặc tại vì thần giận dữ, bỏ rơi quân ta, hoặc tại vì thần của mình yếu thế, không địch nổi với thần chỉ huy đạo quân của đối phương. Chúng ta có thể thấy tư tưởng này ở sách 1 Samuel (4,4), khi mà Israel kiệu hòm bia thánh được đặt tại điện Silô (hòm bia giao ước của Đức Chúa các đạo binh) trong cuộc chiến với người Philitinh. Lúc đầu, sự hiện diện của hòm bia đã tăng thêm tinh thần chiến đấu cho Israel; nhưng tiếc rằng họ bị mất hòm bia và sự thất trận được giải thích như bị Chúa bỏ rơi.
(2) Ý kiến thứ hai cho rằng “đạo binh” ở đây không phải là quân lực Israel, nhưng là đạo binh thiên quốc. Người ta hình dung rằng Thiên Chúa có một đạo binh ở trên trời: Ngài được ví như Ngọc hoàng, cũng có triều đình và quân lực. Vì thế mà khi cần giao tranh với các lực lượng đối nghịch, thì Ngài sẽ sai đạo binh thiên quốc đến chấp hành kế hoạch. Nói khác đi, đạo binh thiên quốc chính là các thiên sứ. Tư tưởng này có lẽ chịu ảnh hưởng của văn hóa Babylon, như đọc thấy trong các ngôn sứ sau thời lưu đày, và còn phảng phất nơi Tân ước khi Chúa Giêsu nói với ông Simon Phêrô trong vườn Cây dầu: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần!” (Mt 26,52-53).
(3) Sau cùng, ý kiến thứ ba cho rằng “đạo binh” ở đây hiểu theo nghĩa bóng, tức là các tinh tú trên trời. Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa, thống lĩnh mọi lực lượng trên trời dưới đất, mây mưa sấm chớp, vv. Hiểu như vậy cho nên bản văn phụng vụ tiếng Pháp dịch là “Chúa của vũ trụ” (Dieu de l’univers). Bản dịch tiếng Italia, Tây ban nha cũng vậy.
Có phải vì thế mà bài ca chúc tụng tiếp theo với những lời “Trời đất đầy vinh quang Chúa, Hoan hô Chúa trên các tầng trời” không?
Đúng có một phần thôi. Phần đầu “trời đất đầy vinh quang Chúa” thì dịch sát với nguyên bản La-tinh. “Trời và đất” trong tiếng Do thái có nghĩa là toàn thể thụ tạo. Trời đất đầy vinh quang Chúa, bởi vì chúng biểu lộ sự hiện diện và các ưu phẩm của Ngài; vì thế mọi loài được mời gọi để chúc tụng Ngài. Câu tiếp theo thì dịch không sát chữ, bởi vì nguyên bản là “hoan hô trên chốn cao thẳm” (in excelsis) chứ không phải là “trên các tầng trời”; nhưng mà dĩ nhiên là ý nghĩa cũng như nhau.
Thiên Chúa ngự ở trên trời, hay chính Ngài là Trời?
Trong Kinh thánh, tiếng “Trời” được hiểu theo nhiều nghĩa. Dù sao, chúng ta đừng quên rằng Kinh thánh được viết cho những người sống trong một nền văn hóa bình dân, khi mà các khoa học về thiên văn và vũ trụ chưa phát triển như thời nay. Người thời cổ quan niệm vũ trụ cách đơn giản như thế này: loài người sống trên mặt đất; mặt đất được bao phủ ở trên bằng cái vòm, với các hành tinh soi chiếu cũng như những kho dự trữ nước mưa và gió; ở dưới đất có những hồ và hố (nghĩa là vực thẳm, đôi khi cũng gọi là âm phủ). Dần dần, với sự tiến triển của sự quan sát và suy luận, những cách hình dung về trời càng lúc càng trở nên phức tạp hơn. Có khi người ta quan niệm trời như cái mái của đất, vì thế có bốn cái cột để chống đỡ cho khỏi sụp. Nhưng có khi người ta quan niệm trời giống như một thế giới khác, gồm có nhiều tầng (các tầng trời), và nhất là gồm những cư dân thuộc loài cao cấp, chẳng hạn như các thiên thần. Tiến thêm một bước nữa, người ta hình dung thế giới trên trời là cả một tổ chức tinh vi toàn hảo gấp mấy lần hạ giới này, bởi vì trời là nước của Đấng Tạo hóa: ngài là Vua trên trời, là Ngọc hoàng Thượng đế.
Như vậy tư tưởng của Kinh thánh cũng trùng hợp với nhiều tôn giáo Á Đông hay sao?
Có chỗ trùng hợp nhưng có chỗ không trùng hợp. Trùng hợp ở chỗ không phải riêng gì tại Á đông mà nhiều dân tộc khác trên thế giới hình dung Trời là nơi Chúa ngự (Chúa ngự trên chốn thiên đình), và thậm chí họ coi Trời là một thần linh. Từ đó mà ta thấy có những từ ngữ như là: “mặt trời” (cái mặt của trời), màu “da trời”; hoạc lời kêu cầu: “Trời ơi!”. Tuy nhiên cũng có chỗ khác biệt. Sự khác biệt chính yếu ở chỗ tác giả Kinh thánh coi Trời là thụ tạo, nghĩa là do Chúa dựng nên. Nói khác đi, trời không phải là Chúa mà chỉ là tác phẩm do Ngài dựng nên. Theo các học giả, điều này nhằm bài trừ tục lệ thờ mặt trời, mặt trăng hoặc các tinh tú, rất thịnh hành ở miền Trung đông. Kinh thánh nhấn mạnh rằng các tinh tú chẳng phải là thần linh gì hết; chúng chỉ là “đèn trời” được dựng nên để soi sáng trái đất mà thôi.
Kinh thánh có dùng từ ngữ “Chúa Trời” như ở bên Việt Nam không?
Có. Chúa Trời được hiểu theo ít là hai nghĩa. 1/ Nghĩa thứ nhất: ngài là Chúa trời bởi vì như vừa nói, ngài đã dựng nên trời đất, và ngài làm chủ trời đất. Ta tạm gọi đây là nghĩa triết lý. 2/ Nghĩa thứ hai: Chúa Trời được hình dung Đấng ngự ở trên trời cao. Đây là một lối hình dung bình dân. Loài người chúng ta ở hạ giới, còn Thiên Chúa ngự trên trời (thiên giới), ngài là Vua trên trời. Quan niệm bình dân hình dung ngài như một Hoàng đế (Thượng đế, Thiên hoàng) với cung điện, quần thần (quen gọi là các thiên thần). Từ ngữ “Thiên Chúa các đạo binh” thành hình trong bối cảnh đó. Dĩ nhiên, điều này giả thiết một nền văn hóa với tổ chức xã hội quy củ. Thực vậy, theo các sử gia, vào những chặng đầu của lịch sử dân Do thái, khi họ còn sống trong trạng thái du mục, thì họ hình dung Thiên Chúa như Chúa của bộ tộc, Chúa của tổ tiên, vị thần luôn che chở bảo vệ họ. Sang đến giai đoạn lập quốc, họ mới hình dung Thiên Chúa như là Vua, bảm đảm công lý, bênh vực người nghèo, trừng phạt kẻ phạm pháp. Dù sao đi nữa, Thiên Chúa của Israel không phải là một vị Ngọc hoàng an toạ trên chốn cửu trùng, nhưng là một Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của dân tộc cũng như của toàn thể nhân loại.
Những tư tưởng vừa nói có còn giá trị trong Tân ước nữa không?
So sánh với Cựu ước thì Tân ước vừa có chỗ tiếp nối vừa có chỗ đổi mới. Chúng ta thấy sự tiếp nối ở chỗ vẫn còn duy trì tư tưởng “Chủ tể trời đất” (thí dụ như Mt 11,25), và tư tưởng “Chúa ngự trên trời” (Mt 5,35). Đổi mới ở chỗ là vị Chúa tể trời đất đồng thời cũng là “Cha”. Trong bài giảng trên núi, chúng ta gặp thấy nhiều lần cụm từ “Cha các con, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16.45; 6,1.19; 7,11,21), đặc biệt là trong kinh Lạy Cha. Ngài là Cha chứ không phải là Ngọc Hoàng ngự trên chốn cao vút xa cách nhân thế. Cha trên trời chú ý săn sóc đến các con cái, thậm chí đếm cả sợi tóc trên đầu chúng ta. Như vậy, tuy ngự ở trên trời, nhưng Ngài rất gần gũi với chúng ta. Một điểm đổi mới quan trọng nữa là nhờ cuộc nhập thể của Đức Kitô, trời và đất được nối kết với nhau. Đức Kitô là Lời Thiên Chúa từ trời xuống cắm lều cư ngụ ở giữa chúng ta, để đưa chúng ta lên trời với Chúa. Dĩ nhiên, ta đừng nên hiểu động từ “lên xuống” theo nghĩa vật lý hay địa lý, nhưng là theo nghĩa bóng, như sách Giáo lý Hội thánh công giáo đã lưu ý khi chú giải kinh Lạy Cha (các số 2794-2795). Trời không ám chỉ một chỗ nào, một khoảng không gian nào, nhưng nó diễn tả một trạng thái hiện hữu. Thực vậy, Thiên Chúa không có thân xác: ngài không ngự không đứng không ngồi ở một chỗ nào hết. Ngài vượt xa các tầng trời. Hiểu như vậy, khi nói rằng chúng ta đang trên đường lữ hành về quê trời, thì đừng nên hiểu là chúng ta đang tìm cách bắt thang vọt lên các tầng mây, nhưng nên hiểu là chúng ta được Thiên Chúa đem về chia sẻ hạnh phúc với Ngài. Luôn tiện cũng nên ghi nhận rằng ở trong Tân ước, đôi khi tiếng “trời” được dùng thay cho Thiên Chúa. Điều này khá rõ rệt ở nơi Phúc âm theo thánh Matthêu, khi mà cụm từ “Nước Thiên Chúa” được đổi thành “Nước trời”. Cách riêng, trong dụ ngôn về đứa con hoang đàng, Luca thuật lại lời xưng thú của chàng ta như sau: “Thưa cha, con đã phạm tội với Trời và với cha”. Câu nói được lặp lại hai lần trong trình thuật đó (Lc 15, 18.21). Con đã phạm tội “với Trời” có nghĩa là phạm tội với Chúa.
(Giuse Phan Tấn Thành, OP.)