SUY NIỆM LỜI CHÚA CN 10 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: 1V 17, 17-24; Gl 1,11-19; Lc 7,11-17
MỤC LỤC
- Để được sống
- Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
- Naim
- Thiên Chúa đã viếng thăm dân của Người
- Thiên Chúa viếng thăm dân Người
- Đừng khóc nữa – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
- Thương cảm – Lm. Mark Link
- Sự thương xót của Chúa sự sống
- Lòng tin nơi dân – R. Gutzwiller
- Chúa thương dân khổ – Lm. ViKiNi
- Hãy chỗi dậy! – P. Trần Đình Phan Tiến
- Niềm tin sống lại từ cõi chết – Lm. Anmai
- Sự sống hay nỗi chết – Thiên Phúc
- Tình người của Thiên Chúa rất đáng khâm phục
- Nên giống Trái Tim Chúa – Lm. Nguyễn Nguyên
- Chết rồi sống – Lm. Trịnh Ngọc Danh
- Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng
- Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
- Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người
- Dấu chỉ thành Naim – André Sève
- Ngài vẫn còn làm phép lạ – Mark Link
- Suy niệm của Lm. Văn Quy & Lm. Trần Văn Khả
- Gợi ý suy niệm của Lm. Carôlô
- Ý nghĩa của cuộc sống
- Tấm lòng để yêu – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
- Con trai bà góa Nain sống lại
- Chú giải của Noel Quesson
- Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
- Để được sống
Bấy giờ Chúa Giêsu đang tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim. Dân chúng đông đúc chen lấn bước theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà goá kia. Từ trong đám đông, Ngài bước ra, đi thẳng tới cỗ quan tài, vừa cầm tay chàng thanh niên vừa nói: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho anh chỗ dậy. Lập tức một sự yên lặng phủ xuống. Ai nấy đều hồi hộp khi thấy chàng thanh niên bắt đầu cử động. Và thánh Luca đã kết thúc bài tường thuật của mình: Dân chúng rất sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa.
Chắc hẳn sự việc này đã tạo được một chấn động lớn cho dân thành. Người ta không ngớt bàn tán với nhau: Ngài dựa vào đâu mà làm được như thế? Tại sao Ngài đã làm phép lạ ấy? Vì xót thương người mẹ? Chắc hẳn không hoàn toàn là như vậy. Chúng ta phải đặt phép lạ này trong toàn bộ những phép lạ khác như chữa lành người bệnh, cho kẻ mù được thấy, người điếc được nghe, để rồi chúng ta liên tưởng tới lời tiên tri Isaia: Khi Đức Kitô xuất hiện, thì mắt người mù sẽ mở, tai người điếc sẽ thông, người què sẽ nhảy nhót như nai và người câm sẽ ca hát được. Và như vậy, phép lạ hôm nay muốn nói với chúng ta rằng: Nước Thiên Chúa đang đến và Đức Kitô chính là Đấng cứu thế Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
Từ đoạn Phúc Âm trên chúng ta đi vào cuộc sống hôm nay. Trong một trại tập trung ở Nonduras mà phần lớn là đàn bà trẻ em và người già cả. Họ giống như những tù nhân bị giam lỏng. Họ bị đối xử tàn nhẫn, thiếu thốn mọi sự và thường xuyên bị đe doạ bởi cái chết. Thế mà trong ngôi nhà nguyện nhỏ, các phụ nữ vẫn thường xuyên tụ tập để cầu nguyện và đi đàng thánh giá. Mỗi chặng ngắm, họ đều so sánh nỗi đớn đau của Chúa Giêsu với nỗi đớn đau mà họ đang gánh chịu. Khuôn mặt họ phảng phất nét buồn phiền của bà goá thành Naim. Và người ta nhận ra rằng lúc này đây, Chúa Giêsu vẫn đang thực sự hiện diện trong nguyện đường này giống như Chúa đã từng hiện diện ở thành Naim 2000 năm về trước. Và hơn thế nữa, Ngài vẫn đang thực hiện nơi nhà nguyện bé nhỏ này một phép lạ còn vĩ đạo hơn phép lạ tại Naim nữa, bởi vì nhờ lời cầu xin của những người phụ nữ, của những người mẹ này, Chúa Giêsu không phải chỉ phục sinh đám con cái họ về mặt thể xác, vì điều này chỉ kéo dài nhiều lắm là 30-40 năm. Trái lại Ngài ban cho con cái họ cuộc sống vĩnh cửu, như lời Ngài đã phán: Ai tin vào Ta thì sẽ sống. Và ai sống mà tin Ta, thì sẽ không phải chết đời đời.
Để kết luận, chúng ta cùng nhau kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, đôi tay Chúa chạm vào mắt kẻ mù loà để cho họ được thấy. Xin hãy chạm vào đôi mắt con để con được nhìn xem Chúa. Đôi tay Chúa chạm vào lỗ tai kẻ điếc để họ được nghe, xin hãy chạm vào tai con để con được nghe thấy tiếng Chúa. Đôi tay Chúa chạm vào chàng thanh niên để chàng được sống. Xin cũng hãy chạm vào con để con được sống muôn đời.
- Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
THIÊN CHÚA CHẠNH THƯƠNG NỖI THỐNG KHỔ CỦA CON NGƯỜI
Đoạn Tin Mừng ‘Đức Giêsu cho con trai một bà góa thành Na-in sống lại’ được xếp vào một trong số ít các phép lạ Người chủ động thực hiện, không qua lời khẩn cầu đôi khi phải rất khẩn khoản đầy tin tưởng của chính các nạn nhân, hoặc thân nhân của họ. Trong trường hợp cụ thể này, đơn giản là vì như được Lu-ca ghi nhận: ‘Người chạnh lòng thương’ trước tình cảnh éo le của một bà mẹ góa bụa vừa mất đi người con trai duy nhất. Chỉ có thế mà Người đã ra tay can thiệp với một phép lạ cả thể. Về phía dân chúng, đứng trước phép lạ cả thể, là một người đã chết đang trên đường đi chôn cất… bật ‘ngồi lên và bắt đầu nói’, họ không khỏi kinh ngạc tới độ cất cao tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Chúa đã viếng thăm dân Người”. Còn riêng với tôi, phép lạ này càng gây kinh ngạc khi tôi nhận ra mối quan tâm sâu sắc mà Thiên Chúa quyền uy cao cả dành cho số phận bọt bèo của một phàm nhân tầm thường: Người chạnh lòng thương! Đối với tôi phép lạ này phản ảnh một trong các nội dung quan trọng nhất của mầu nhiệm Nhập Thể: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…” (Ga 3:16) và, qua Đức Giêsu, Người quả thực rất quan tâm gần gũi với mọi tầng lớp con người.
Thật ra nội dung ‘chạnh lòng thương’ này không mấy xa lạ với Kinh Thánh nói chung. Trước cảnh nô lệ mà dân Do Thái phải chịu bên Ai-cập, Đức Chúa đã phán bảo Mô-sê: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng…” (Xh 3:7) Từ đó xuất hiện trong Ít-ra-en một thái độ tin tưởng rất ấn tượng đối với Đức Chúa: “Con lâm cảnh ngặt nghẻo, Ngài lo lắng chăm nom, chẳng trao nộp thân này vào tay thù địch, nhưng cho con rộng bước thênh thang (Tv 30:9) Thế nhưng, hình như cũng đã rất sớm xuất hiện một khuynh hướng trái nghịch muốn đẩy Thiên Chúa ra xa, tới một nơi tôn nghiêm cực thánh, để rồi Người bị coi như một kẻ xa lạ, đầy thịnh nộ và quyền uy, phải được làm nguôi ngoai bằng các nghi thức lễ tế rườm rà. Từ đó lời cầu khẩn cũng không còn là hoàn toàn tin tưởng phó thác nữa, một chất chứa bồn chồn lo lắng: “Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và hồn con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi?” (Tv 12:3); thậm chí còn tỏ ra nghi ngờ Đức Chúa xót thương, “Xin Chúa đừng chê bỏ chúng con, đừng rẻ rúng tòa vinh hiểu của Ngài. Dám xin Ngài nhớ lại đừng hủy bỏ giao ước giữa Ngài với chúng con” (Gr 14:21).
‘Thiên Chúa luôn đi bước trước…, vì lòng nhân ái vô biên của Người’ là nét nổi bật nhất trong toàn bộ mạc khải của Đức Giêsu: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (xem Ga 3:16). Khảng định của niềm tin Ki-tô hữu chúng ta không chỉ là: tôi tin vào một ‘Thiên Chúa yêu thương’ nhưng còn hơn thế nữa, tôi tin vào một “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước…” Và Thánh Gio-an còn thêm: chính vì vậy mà “Tinh yêu không biết đến sợ hãi, trái lại tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1 Ga 4:18-19). Đặc điểm lớn nhất của mạc khải Giêsu chính là Thiên Chúa chủ động trong tình yêu của Người đối với con người đến nỗi, sau này Người đòi nó phải trở thành mẫu mực cho mọi tương quan tình yêu giữa người với người: “Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương chúng con” (Ga 13:34-35).
Thế nhưng cũng như thời Cựu Ước, thời gian dần trôi làm phát triển ngay giữa các Ki-tô hữu một khuynh hướng, đặc biệt trong lãnh vực phụng tự, đề cao sự vinh quang thánh thiện tột đỉnh của Thiên Chúa, nhấn mạnh sự cách biệt giữa Thiên Chúa và con người như trời với đất… Rất nhiều Ki-tô hữu rơi vào suy tưởng đầy ngộ nhận là: Thiên Chúa rất ít, hoặc hiếm khi, quan tâm tới số phận của tôi. Do ảnh hưởng của các tôn giáo vây quanh mà học thuyết phổ biến của họ là: các thần linh đòi phải được khẩn cầu và cung phụng, nhiều Ki-tô hữu không xác tín nổi rằng: có một Thiên Chúa từ nhân thực sự quan tâm tới con người yếu hèn, tới hoàn cảnh sống, nhất là tới những trạng huống đau thương của cuộc đời mình. Họ hoàn toàn đánh mất thái độ ‘như trẻ thơ nép mình bên lòng mẹ’, thái độ của con đường thơ ấu đầy tin thác của Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu tới độ, phải tới đầu thế kỷ XX Hội Thánh mới được nghe biết và coi như một khám phá độc đáo của thời đại. Dầu vậy cho tới ngày nay (sau Tê-rê-xa gần cả trăm năm) thực tế đã có bao nhiêu Ki-tô hữu thực sự xác tín rằng: niềm tin của mình là Tin Mừng…, vì biết rằng Thiên Chúa đã yêu thương mình cách vô điều kiện, bất chấp những lỗi lầm mình phạm?
Và còn hơn thế nữa, trong việc làm ăn sinh sống hàng ngày, niềm tin Ki-tô chúng ta có gì khác hơn so với sự cầu khẩn van xin của tín đồ các tôn giáo khác? Nếu cũng chỉ là khấn vái lạy lục để nhận được ân này huệ nọ, thì Lời Chúa hôm nay hẳn sẽ không có một giá trị nào hết. Lúc đó cùng lắm chúng ta sẽ coi việc Đức Giêsu làm phép lạ cho con trai bà góa thành Na-in sống lại cũng chỉ là một trong nhiều dịp, để Người biểu dương quyền năng tối thượng của mình mà thôi.
Vậy thì phép lạ mà Tin Mừng Chúa đề cập tới hôm nay chắc hẳn phải có giá trị củng cố niềm cậy trông còn rất yếu kém của chúng ta nhiều lắm đấy!
Lạy Chúa, xin củng cố đức tin của con, đặc biệt trong năm đức tin này. Xin cho con không chỉ tin rằng: Chúa hiện hữu, mà còn là hiện hữu chỉ vì yêu con; tin rằng Chúa yêu con không phải vì con xứng đáng mà chính vì con yếu đuối bất toàn; tin rằng Chúa hằng quan tâm chăm sóc con không phải vì con trung thành phụng sự, nhưng là vì tự bản chất, Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót. Xin cho niềm tin này có sức đổi mới cuộc đời, cất khỏi con mọi nỗi lo âu buồn nản, nâng đỡ con lúc gặp thử thách gian nan…, để con có khả năng đem niềm vui của Chúa đến cho mọi người, đặc biệt các bạn trẻ sầu khổ thất vọng. Amen.
- Naim
Phúc Âm kể lại rằng: Chúa Giêsu thổn thức xót thương cho người mẹ đang than khóc trước cái chết của đứa con trai duy nhất. Và rồi Ngài đã làm phép lạ cho đứa con trai ấy được sống lại trước sự ngạc nhiên và thán phục của mọi người. Vậy thì đâu là ý nghĩa, đâu là bài học chúng ta tìm thấy được qua sự kiện vừa nghe?
Chàng trai được đem đi chôn là hình ảnh tượng trưng cho tất cả những ai đã chết đi cho đời sống ơn sủng, do những tội lỗi mình vấp phạm. Thánh Gioan Kim Khẩu đã diễn tả về họ như sau: Mặc dù không bị vùi sâu trong lòng đất lạnh, mặc dù không bị giòi bọ rút tỉa thân xác, nhưng tâm hồn họ thực sự đã chết và còn tệ hơn thế nữa là đàng khác, bởi vì tâm hồn họ đã bị những đam mê dục vọng sai quấy làm nhàu nát.
Còn người mẹ than khóc đứa con của mình là hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội. Đúng thế Giáo Hội luôn than khóc những đứa con bất hạnh của mình. Ngày cũng như đêm, Giáo Hội không ngừng cầu nguyện cho họ biết trỗi dậy trở về cùng Chúa, bởi vì Giáo Hội biết rằng con đường họ đang đi sẽ dẫn họ tới chốn diệt vong.
Hoàn cảnh khiến chàng thanh niên được cứu sống cũng chính là cách thức Chúa thường dùng để hoán cải các tội nhân. Chúa Giêsu đến gần người chết cũng như các tội nhân. Ngài có hàng ngàn cách thức để nói với họ, hầu thức tỉnh họ. Có thể đó là một bài giảng cảm động. Có thể đó là một trang sách vô tình họ đọc được. Có thể đó là một mẫu gương của một người đạo đức thánh thiện. Có thể đó là cái chết của một người thân yêu, hay một tai ương bất ngờ xảy đến, làm đảo ngược những dự tính của họ. Điều quan trọng là tâm hồn họ không chai lì để nhận ra tiếng nói của Chúa.
Phúc Âm còn kể tiếp: Bấy giờ Chúa Giêsu đụng tới quan tài và những người khiêng đứng lại. Các thánh giáo phụ thì nghĩ rằng những người khiêng là những đam mê dục vọng xấu xa, làm cho con tim trở nên mù loà và dẫn đưa chúng ta tới cái chết. Đó là những thói hư tật xấu làm cho chúng ta trở thành nô lệ cho ma quỷ. Để được giải thoát, chúng ta phải biết chạy đến cùng Chúa, vì chỉ mình Chúa mới có thể bẻ gẫy xiềng xích và phá tan gông cùm của tội lỗi. Ngài sẽ cứu giúp chúng ta vì Ngài không muốn kẻ tội lỗi phải chết nhưng muốn họ ăn năn và được sống. Chính Ngài sẽ đi bước trước đến các tội nhân. Chính ngài đã phán với chúng ta: Một người tội lỗi ăn năn hối cải sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối.
Rồi Chúa Giêsu nói với người đã chết: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho con hãy trỗi dậy. Lập tức chàng trai trỗi dậy và Chúa Giêsu trao chàng cho người mẹ. Chúa Giêsu cũng nói với người đã chết đi vì tội lỗi như vậy: Hỡi người ngủ mê hãy trỗi dậy. Hỡi kẻ còn ngồi trong bóng tối sự chết hãy chỗ dậy. Chúa Giêsu sẽ tha thứ và sẽ rửa sạch mọi dấu vết tội lỗi bằng máu thánh của Ngài. Hãy trỗi dậy. Đức Kitô sẽ chiếu sáng và mặc cho ngươi tấm áo cưới và đem lại cho ngươi niềm vui mừng đã mất. Thế nhưng là những kẻ tội lỗi chúng ta đã thực sự nghe thấy tiếng gọi của Chúa và đã trỗi dậy, lên đường trở về với Ngài hay chưa?
- Thiên Chúa đã viếng thăm dân của Người
(Trích dẫn từ tập sách ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Tiên tri Êlya đã làm cho con bà góa thành Sarepta sống lại. Đức Giêsu Kitô cũng đã làm phục sinh người thanh niên con bà góa thành Naim. Nhưng hai câu chuyện, hai cách thức làm cho kẻ chết sống lại khác nhau làm sao!
Tuy nhiên phụng vụ Lời Chúa hôm nay không muốn so sánh Êlya với Đức Giêsu. Phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về mặt đạo đức. Và bài học của phụng vụ nằm trong cả ba bài đọc. Không tất nhiên ba bài Kinh Thánh đều nói lên một ý; nhưng đọc kỹ chúng ta vẫn có thể nhận ra một chủ đề nào đó với nhiều ý tưởng phụ xoay quanh. Chủ đề ấy chúng ta sẽ dễ thấy nổi lên sau khi đọc lại các bài Kinh Thánh vừa nghe.
1) Tôi biết là Người Của Thiên Chúa
Bài sách Các Vua thuật lại một câu chuyện trong cuộc đời của tiên tri Êlya. Chúng ta chẳng có một sách tiểu sử đầy đủ nào về nhà tiên tri này. Sách Các Vua quyển I kể nhiều chuyện về ông. Nhưng đó là những “mẩu” chuyển rời rạc không dính vào nhau để làm thành một cuốn tiểu sử. Câu chuyện hôm nay chẳng hạn. Người ta thường gọi là chuyện Êlya làm cho con bà góa thành Sarepta sống lại. Nhưng như chúng ta vừa nghe, chẳng có chữ nào trong bài kể hôm nay nói rằng bà góa ấy ở thành Sarepta. Chỉ vì trước đó sách Các Vua kể rằng Êlya theo lệnh Chúa đi đến Sarepta và lưu lại ở đó. Ông đã gặp một bà góa đi mót củi. Ông xin bà cho bánh ăn và nước uống. Và bà ta có một đứa con. Tuy nhiên chẳng có gì chắc chắn khiến người ta có thể bảo bà góa con côi ấy cũng chính là mẹ góa con côi trong chuyện này. Ngược lại, chỉ cần lưu ý ít nhiều đến danh từ và cách kể, người ta thấy đây là hai chuyện khác nhau. Bà góa đi mót củi ở Sarepta không phải là “bà chủ nhà” trong câu chuyện này. Tiếng “bà chủ nhà” khiến người ta phải nghĩ đến một mệnh phụ quí phái hơn người đàn bà đi mót củi. Và nhất là cuộc đối thoại giữa bà chủ nhà với nhà tiên tri trong câu chuyện hôm nay cho thấy giữa hai người dường như chưa hiểu nhau. Đang khi bà góa ở Sarepta đã hiểu biết nhà tiên tri rồi.
Đằng khác, ai hiểu biết Kinh Thánh có thể nhận ra ngay rằng câu chuyện kể trong sách Các Vua quyển II về tiên tri Êlya. Ông này cũng làm cho con một bà lớn ở Shumen sống lại. Do đó có người nghĩ câu chuyện kể hôm nay đã được môn đồ của Êlya viết thêm vào cuộc đời của Êlya làm cho nhà tiên tri này sáng giá hơn.
Quả thật, dường như đây là mục đích của chính bài tường thuật hôm nay. Người muốn viết cho mọi người biết Êlya là người của Thiên Chúa. Thoạt tiên bà góa kia cũng như hầu hết các người đồng thời không biết như vậy. Họ thấy Êlya là người khác thường. Họ biết ông có một nhiệt tình lạ lùng đối với Giavê. Luôn luôn ông kêu gọi người ta sống trung thành với giao ước và đừng thờ một thần nào khác ngoài Giavê. Lắm lúc ông đe dọa người ta những hình phạt khủng khiếp. Kể cả vua Israen thời bấy giờ. Nhà vua tránh né Êlya chỉ sợ gặp lại phải nghe các đòi hỏi của Thiên Chúa và các hình phạt theo sau nếu nhà vua không đáp ứng những đòi hỏi kia.
Do đó người ta sợ Êlya hơn là muốn nghe theo ông. Người ta chưa chắc ông là người của Thiên Chúa. Nói đúng hơn, vì yếu đuối và sợ các đòi hỏi của tôn giáo chân thật, người ta chưa muốn công nhận ông là người của Thiên Chúa.
Chính vì Êlya khiến người ta sợ hơn là lôi cuốn được hạ theo mình, nên khi Êlya ở tại nhà bà góa kia mà con bà bị bệnh chết, thì bà ta đã đổ tội cho nhà tiên tri. Bà nói: Ngài và tôi có việc gì (với nhau) mà ngài lại đến tôi để hạch tội tôi và làm con tôi chết? Nhà tiên tri bị buộc tội như vậy chẳng biết làm gì hơn để giải oan là xin lấy xác đứa con để làm sao cho nó sống lại.
Chúng ta thấy ông nằm dài trên đứa trẻ ba lần, khác nào như làm phù phép. Nhưng rõ ràng không phải cử chỉ và hành động này đã làm cho đứa trẻ sống lại, nhưng là lời Êlya cầu nguyện xin Thiên Chúa cho hồn vía đứa trẻ trở về lại mình nó. Chính lời cầu nguyện này đã kéo Êlya ra khỏi cảnh lúng túng và đem sự kiện lạ lùng này mà bà chủ nhà cũng như mọi người sẽ nghe biết chuyện mới thấy rõ Thiên Chúa ở với Êlya và ông thật là người của Thiên Chúa.
Do đó câu chuyện này xảy ra để giúp Êlya. Chủ ý của người viết là làm sáng giá cho nhà tiên tri. Tuy nhiên câu chuyện cũng dạy dân Do Thái một bài học: Thiên Chúa có thể làm cho kẻ chết sống lại. Và chết chưa phải là hết. Nếu người ta tin vào Chúa và biết cầu xin với Người thì Người có thể làm cho con người sống lại. Một niềm tin như thế đòi hỏi ta phải biết sống như thế sẽ có sự phục sinh. Ai không thấy đó là một mạc khải lớn lao và đầy hy vọng cho con người, nhất là ở thời xa xôi và tại những nơi chưa có lời giảng dạy chắc chắn nào về đời sau. Riêng đối với chúng ta, cần nhờ câu chuyện trong bài sách Các Vua hôm nay để hiểu hơn về bài Tin Mừng trong thánh lễ này.
2) Thiên Chúa đã viếng thăm Dân Của Người
Người ta có thể nói tác giả Luca đã vay muộn một số nét của bài kể trong sách Các Vua. Nhưng những điểm dị đồng đáng để ý hơn nhiều, nhất là chủ ý của hai tác giả rất khác nhau.
Luca thuật lại một câu chuyện đã xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, có đông đảo dân chúng chứng kiến, đang khi bài sách Các Vua chỉ tường thuật việc xảy ra trong nhà một mẹ góa con côi. Và như vậy có thể nói một việc đã xảy ra có hệ đến toàn dân, còn việc kia chỉ liên quan đến một gia đình, nếu không muốn nói là một người. Chúng ta hãy tạm bỏ câu chuyện xưa xảy ra thời Êlya, để chú ý đến việc xảy ra dưới thời Chúa Giêsu mà Luca đã thuật lại để nói rằng nó rất có hệ đến chúng ta thời bây giờ.
Hôm ấy Đức Giêsu đi với môn đồ và đông đảo quần chúng đến một thành gọi là Naim. Người đi vào xã hội loài người vì theo Kinh Thánh “thành” là nơi loài người sinh sống. Và “thành” mà không có Chúa thường được ví như một góa phụ. Hơn nữa “bà góa” ấy không nuôi nổi con mình. Cố gắng của loài người không có thể làm cho con người được sống thật và sống đời đời.
Do đó khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì này người ta đang khiêng đi chôn đứa con gái của bà góa. Thật là não nuột. Có một đứa con mà bà góa vẫn không giữ được. Xã hội loài người cũng bất lực bó tay. Dân chúng trong thành chỉ biết đi chôn đứa con với bà.
Người thường, nếu nhìn thấy cũng chỉ biết cảm thông. Đức Giêsu thì khác, Người đi vào thế gian là để cứu sống nên tác giả Luca viết: “Chúa chạnh lòng thương”. Lần đầu tiên trong tác phẩm của ông, Luca xưng Đức Giêsu là “Chúa”. Từ ngữ này, các tác giả Tân Ước chỉ dùng để nói về Người sau khi Người đã sống lại. Luca còn dùng kiểu nói “chạnh lòng thương” là kiểu nói chỉ dùng để nói về chính Thiên Chúa khi Người muốn biểu lộ tình thương cứu độ đối với dân Người. Như vậy trong câu nói vắn tắt kia, Luca đã nhìn thấy nơi Đức Giêsu, chính Thiên Chúa đang muốn tỏ lòng thương cứu độ nhân loại khổ sở nằm chết trong tội lỗi. Hơn nữa tác giả còn ngầm ý bảo rằng: nơi Đức Giêsu có sự phục sinh.
Thật vậy, ở đây Đức Giêsu không cầu nguyện như Êlya. Người bảo bà góa đừng khóc lóc nữa. Người đụng đến quan tài. Các kẻ khiêng đứng lại tức khắc. Sao Người uy quyền như vậy? Người ta đã tin ở Người rồi, vì nếu không, các kẻ kia không dễ vâng lời như thế. Rồi Người truyền lệnh: “Thanh niên! Ta bảo ngươi hãy trỗi dậy”. Và người chết ngồi chồm dậy và lên tiếng nói, (để làm chứng đã sống lại thật).
Phản ứng của mọi người là kinh sợ trước quyền và công việc Thiên Chúa. Thiên Chúa đang ở trước mặt họ. Người vừa cho họ thấy một biểu dương uy quyền của Người. Bà góa thành Sarepta thấy Êlya cầu nguyện mà làm cho con bà sống lại, thì nhận ra Êlya là người của Thiên Chúa nên được Chúa nhận lời, còn ở đây người ta thấy sự sống lại do chính Đức Giêsu mà đến, nên Người là một tiên tri cao cả, và đúng hơn, Người là chính Thiên Chúa cứu độ mà loài người chết trong tội lỗi đang chờ đợi.
Do đó như các bài sách Các Vua đã muốn chứng tỏ Êlya là người của Thiên Chúa, thì bài Tin Mừng Luca muốn làm chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ. Nơi Người có sự phục sinh để làm cho loài người sống lại, nên Người là vị tiên tri cao cả và là Thiên Chúa đến viếng thăm dân của Người. Chúng ta hãy tin vào sức mạnh cứu độ của Người. Và điều này bài thư Phaolô cũng muốn làm chứng.
- Thiên Chúa đã mạc khải Con của Người trong tôi
Quả vậy, Phaolô viết thư cho người Galát để ít ra trong đoạn trích hôm nay – Xác minh mình là tông đồ chân chính. Trước đây người Galát vẫn tin như vậy. Nhưng nay có mấy người Do Thái đến đặt điều vu khống và dèm pha uy tín của người, để lôi kéo người Galát trở về với những tập tục Do Thái là cắt bì và giữ luật Môsê. Họ nói rằng Phaolô đã không được đặt làm tông đồ. Người đã làm việc tự ý. Tin Mừng người rao giảng không đáng tin.
Phaolô phản kháng mạnh mẽ. Trong đoạn văn này. Người khẳng định chính Thiên Chúa đặt người làm tông đồ, khi mạc khải Đức Giêsu Kitô cho người. Quả vậy, xưa người không như thế. Người cũng chỉ biết đạo Do Thái và chỉ hơn đồng đạo ở điểm hăng say phục vụ.người đã tình nguyện đi bắt bớ và ra công triệt hạ Hội Thánh của Thiên Chúa. Tại đâu người đã thay đổi ra như ngày nay? Chính nhờ Thiên Chúa đã tách người ra ngay từ lòng mẹ và kêu gọi người. Phaolô ý thức ơn người đã được là do lòng thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã tuyển chọn và kêu gọi người như Giêrêmia ở đây để nói lên niềm tin ấy. Hơn nữa khi kêu gọi người, Thiên Chúa đã không mạc khải một sứ điệp, hoặc một sứ mệnh, như trong trường hợp các tiên tri. Thiên Chúa cho Phaolô biết Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, để từ nay người phải rao giảng Ngài.
Do đó Phaolô không cần học với một ai. Chính Thiên Chúa đã dạy Phaolô biết Chúa Giêsu, biết tất cả các chân lý về Ngài và mọi điều phải rao giảng về Ngài. Việc tiếp xúc với các tông đồ khác không cần thiết tuyệt đối theo nghĩa Phaolô phải cần học hỏi thêm với các ngài. Khi đã nhận được mạc khải của Đức Giêsu Kitô và được đặt làm tông đồ rồi, người ta muốn nắm vững các chân lý của đạo. Việc tiếp xúc với các tông đồ khác chỉ có ý nghĩa hiệp thông, duy nhất. Và nếu nó có làm giàu thêm cho kho tàng mạc khải mà mỗi người đã lãnh nhận, thì cũng chỉ là một sự soi sáng thêm để đi sâu hơn vào chân lý mà thôi. Phaolô không những được quyền lợi và vinh dự như mọi tông đồ; nhưng vì đã được mạc khải một cách đặc biệt và độc đáo, người còn xứng đáng được tôn vinh như một tông đồ độc hạng và kiệt xuất. Và được như vậy, một lần nữa người ta nên biết, là tự người đã được ơn hiểu biết Chúa Giêsu Kitô một cách phi thường. Do đó, hiểu biết Chúa Giêsu Kitô là điều quan trọng và quan trọng hơn hết. Bài Tin Mừng đã muốn làm cho người ta được sự hiểu biết này. Bài thư Phaolô làm chứng khi sự hiểu biết này sâu sắc đặc biệt, thì người ta cũng được chọn một cách đặc biệt. Vinh dự và hạnh phúc của người ta vượt xa sự sung sướng của bà góa thành Sarepta khi hiểu biết tiên tri Êlya.
Chúng ta tự nhiên muốn được sự hiểu biết này. Hội Thánh muốn giúp đỡ chúng ta không ngừng. Đặc biệt trong các thánh lễ. Phụng vụ Lời Chúa là một mạc khải liên tục về Chúa Giêsu Kitô. Và nhất là Bí tích cử hành nơi bàn thờ. Tại đây Chúa Giêsu Kitô không muốn cho chúng ta gặp Người như Phaolô trên đường Đamas sao? Chúng ta phải nói còn hơn thế nữa. Chúng ta sẽ lãnh nhận chính mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, là chính mầu nhiệm của Người, là chính mầu nhiệm biểu lộ Người hoàn toàn và đầy đủ hơn hết. Người không những là Đấng Tiên Tri của Thiên Chúa, nhưng còn là chính Con Thiên Chúa sinh ra làm người để tha thứ tội lỗi và làm cho chúng ta được sống lại và sống sự sống mới. Chúng ta hãy có lòng tin yêu để đón nhận và để sống sự sống của Chúa Giêsu Kitô.
- Thiên Chúa viếng thăm dân Người
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm
Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim. Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông. Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain. Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra. Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ. Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết. Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng, và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.
Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường. Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết, dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai. Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ. Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa. Bà đã dự đám tang của người chồng. Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất. Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi. Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ. Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất. Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?
Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt. Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13). Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác. Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33), Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34). Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy: Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15). Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết. Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì. Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại. Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn, chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái. Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14). Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh. Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23). Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu? Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác. Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ, khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.
Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16). Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44), Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới. Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác, và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.
Cầu nguyện:
– Lạy Chúa Giêsu, Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương. Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời. Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch, và bầu trời vắng tiếng chim. thì đó là lỗi của chúng con.
– Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người, vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói, bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời, bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp. Đó là lỗi của chúng con.
– Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương, vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình. Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi. Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi. Đó là lỗi của chúng con.
– Lạy Chúa Giêsu ở Belem, Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ, nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu. Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan. Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc. Đó là lỗi của chúng con. Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại, và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu. Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem, xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa để yêu trái đất lạnh giá này hơn, và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
- Đừng khóc nữa – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Mỗi người sinh ra trong đời khởi đầu bằng tiếng khóc. Tiếng khóc chào đời báo hiệu một niềm vui, một sự sống mới đi vào trần thế. Nhưng khi con người giã từ cuộc đời thì không tự mình khóc được, bao nhiêu người khác sẽ khóc thay trong đau buồn thương tiếc. Một người ra đi sẽ không còn hiện hữu trên trần gian này nữa. Vì thế, đây là tiếng khóc da diết, thảm buồn nhất. Sự chết quy tụ người ta lại trong tiếng khóc. Và chính tiếng khóc này là nơi gặp gỡ của tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu đem niềm vui đến, tiếng khóc không còn, chỉ còn nụ cười hân hoan và lời ca ngợi khen.
Thánh Luca là một y sĩ cho nên bài tường thuật về phép lạ con trai bà góa sống lại thắm đượm tình người. “Khi Chúa Giêsu tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim… đám dân đông đúc chen lấn theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành, thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà góa nọ”. Naim, nay là một làng nhỏ ở phía nam núi Tabor, gần Djebel Dahin.Naim cũng gần Sunem là nơi tiên tri Êlisê đã làm cho con bà chủ nhà trọ được sống lại.
Thường thường việc chôn cất người chết vào lúc buổi chiều. Đức Giêsu đi vào trong làng thì gặp đám tang đang đi ra.
Một người thanh niên chết và anh là con trai duy nhất của một bà góa. Bà mẹ rất đau khổ vì chồng đã chết nay con trai duy nhất cũng ra đi.
Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, và rất đông dân làng đã đi tiễn biệt con trai vắn số của bà. Thông thường lúc chết, người ta được mọi người quan tâm và yêu thương hơn lúc nào hết.
Có một người đang lặng lẽ tiến lại trước quan tài. Đó là Đức Giêsu. Với lòng thương xót những người cùng khốn, với con tim nhạy bén trước nổi đau của con người, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi Ngài sờ vào quan tài. Các người khiêng đứng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy!”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa…”. Câu chuyện đã được loan truyền khắp vùng.
Người ta kinh ngạc vì chẳng mấy khi xảy ra một biến cố lạ lùng như vậy. Từ thời Vua Achab (874-853 A.C) có xảy ra hai lần người chết sống lại.Ngôn sứ Êlia cho con của bà góa thành Sarepta sống lại. “Ông đã nằm dài trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa của tôi, xin cho hồn đứa trẻ này về lại mình nó.Thiên Chúa đã nghe tiếng của Êlia và cho hồn đứa trẻ về lại nơi mình nó và nó sống lại” (1V 17, 21-22). Lần khác, “Êlisê vào nhà Bà Sunem và này đứa bé đã chết, đặt nằm trên giường của ông. Ông vào và đóng cửa lại…Đoạn ông khẩn nguyện với Thiên Chúa. Rồi ông lên nằm trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, bàn tay ông trên bàn tay nó… thịt mình đứa trẻ nóng lên… đứa bé nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra” (2V. 4, 32-35).
Thời các tông đồ, Sách Công vụ kể, thánh Phaolô làm cho một thiếu niên chết sống lại: “Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em… kéo dài đến mãi nửa đêm… một thiếu niên tên Êutykhô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn giảng. Vì ngủ say nên nó ngã từ tầng lầu thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”. Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít” (Cv 20, 7-12).
So sánh với câu truyện sống lại kể trong 1V 18, 17-24 và 2V 4, 18-36, do tiên tri Êlia và tiên tri Êlisê, ta thấy có một sự khác biệt căn bản. Hai tiên tri Êlia và Êlisê đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử động biểu tượng. Chúa Giêsu chỉ phán một lời, chỉ ra có một lệnh, tức khắc chàng thanh niên liền sống lại. Trong Phúc Âm kể lại câu chuyện Chúa cho con gái ông Giairô đã chết được sống lại (Mc 5, 22-42); Chúa cho Ladarô đã chết bốn ngày sống lại (Ga 11, 43-44)…
Tuy nhiên, những người đã chết được Chúa cho sống lại rồi họ cũng chết lần nữa và thân xác về bụi đất. Sứ điệp chính của Tin mừng là sự sống viên mãn, sự sống dồi dào đằng sau cái chết.
Qua phép lạ cho con trai bà góa thành Naim chết được sống lại, Chúa Giêsu đã tiên báo sự phục sinh của Ngài. Đây chính là niềm tin, là niềm hy của Kitô hữu: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).
Chúa Giêsu đến thế gian để cứu độ con người. Sự hiện diện này đem lại niềm an ủi, khích lệ và còn đưa lại sự sống, khôi phục sự sống và kiến tạo sự hiệp nhất. Những người có đức tin nhìn cuộc đời dưới khía cạnh lạc quan và tích cực. Họ coi cuộc đời chỉ là một cuộc hành trình về quê trời, mỗi người chỉ là khách lữ hành nơi trần thế. Trong cuộc hành trình, họ phải nỗ lực vừa chịu đựng vừa vượt qua khó khăn để đi tới đích. Họ nhớ lời Chúa đã dặn dò: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con… Thầy sẽ trở lại đón các con…”. Họ cũng tin tưởng và lạc quan với lời thánh Phaolô nói với tín hữu Philipphê: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Đồng thời, thánh Phaolô cũng cho tín hữu Côrintô biết thêm về ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta ở trên trời: “Chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).Những người có lòng tin như thế coi đời sống là một cuộc thử thách, đau khổ sẽ qua đi và chính đau khổ sẽ là phương tiện tiến tới vinh quang.
Trên những phần mộ thường có cây Thánh giá. Cây Thánh giá nói lên niềm tin: Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên đó để cứu chuộc con người khỏi vòng liên lụy của tội lỗi. Thánh giá Chúa Giêsu là ơn cứu độ niềm hy vọng cho con người.
Trên phần mộ cũng thường có tấm bia có khắc ghi di ảnh người quá cố với ngày tháng năm cùng nơi sinh ra và ngày tháng qua đời. Cũng trên tấm bia có khắc 3 chữ: R. I. P. Đây là 3 chữ tắt của câu bằng Latinh: requiescat in pace – Ông, bà, anh, chị, em an giấc ngàn thu! Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng ximăng cát đá, nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì Ngài là Cha đời tôi. Và tôi biết Ngài hằng yêu mến tôi.
Đứng trước nấm mồ người quá cố, tâm tình buồn thương tiếc nhớ làm sống lại những hình ảnh kỷ niệm buồn vui năm xưa. Thánh Giá Chúa Giêsu và cây nến cháy sáng trên phần mộ tựa như những lời nhắn nhủ của người quá cố nói với người đang sống: tôi đi về cùng Thiên Chúa Cha, về cùng Đấng là nguồn sự sống và nguồn tình yêu. Con người không có quyền gì trên sự chết và sự sống. Sống và chết là kỳ công và đều bởi Thiên Chúa. Sự sống là mong manh, thế mà Thiên Chúa lại phải đánh đổi bằng máu của các tiên tri, bằng mạng sống của Con yêu dấu là Chúa Giêsu.
Mọi người, một ngày kia sẽ chết. Chúa Giêsu sẽ không đụng đến quan tài của chúng ta hoặc không nói với những người khiêng quan tài dừng lại. Thay vào đó, Ngài sẽ dùng quyền năng để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh. Và khi đó chúng ta thật sự ngợi khen Thiên Chúa nhân lành là Chúa của sự sống viên mãn.
- Thương cảm – Lm. Mark Link
Walter Payton là một trong những cầu thủ nổi tiếng của đội dã cầu Chicago Bears. Ở Chicago, ông thường được gọi là “Sweetness” và cũng là một trong những cầu thủ giỏi nhất chơi cho đội Bears. Về phương diện cá tính cũng như nghề nghiệp, ông xứng đáng với cái tên “Sweetness”. Ông mất sớm, và sau khi từ trần không lâu, một bà trước đây ở Chicago gửi một lá thư cho tờ Dallas Morning News. Bà kể khi tham dự một cuộc triển lãm xe hơi ở Chicago, ông Walter Payton đang đứng trên một cái bục, ký tên lưu niệm. Một bé trai, khoảng 12 tuổi, đưa cho người giúp việc một trái banh dã cầu mà em đã đem theo từ nhà để được ông Payton ký tên vào đó. Ông Payton ký tên, ném trái banh xuống cho bé trai này, và tiếp tục ký tên lưu niệm. Ông không thấy một thiếu niên cao lớn khác đã chụp lấy trái banh này và lẻn ra khỏi đám đông. Em bé trai ôm mặt khóc. Một phụ nữ đứng cạnh đó đã len qua đám đông để lưu ý người giúp việc về sự kiện xảy ra. Ông này đã nói lại cho ông Payton biết về sự việc và ông Payton đã gọi em bé trai đến. Ông hỏi tên và địa chỉ của em và cho biết ông sẽ gửi cho em một trái dã cầu có chữ ký của ông. Người phụ nữ viết thư cho tờ báo đó nói: “Tôi chưa bao giờ được thấy nước mắt trở thành một nụ cười tươi rói sau khi em bắt tay ông Payton.” Bà kết luận: “Tôi tin rằng ông Payton không chỉ là “Mr. Sweetness” ở ngoài sân banh, nhưng còn trong mọi khía cạnh của cuộc đời ngắn ngủi của ông.” (Lorraine Rukavina, Carrollton, Texas)
Trong một cách nào đó, tôi nghĩ rằng câu chuyện này cho chúng ta một cái nhìn về loại người của ông Walter Payton hơn là tất cả những thành tích thể thao của ông. Nó cho thấy ông là một người có tâm tình và lòng thương cảm. Nó cho thấy ông là một người có thể đặt mình vào hoàn cảnh của người khác. Nó cho thấy ông là một người không chỉ thông cảm được sự đau khổ của người khác nhưng còn sẵn sàng thi hành điều gì đó cho sự đau khổ đó. Nói tóm, nó cho thấy ông là loại người mà Đức Giêsu đã là và đã từng dạy dỗ các môn đệ: một con người biết thương cảm.
Việc phục hồi sự sống cho người con trai duy nhất của bà goá nghèo trong Phúc Âm chỉ là một trong nhiều thí dụ về sự thương cảm đầy dẫy trong cuộc đời của Đức Giêsu. Đó là một trong những nghĩa cử thúc giục Đức Giêsu đến với người khác và chữa lành cho họ. Về điểm này, Donald Senior, một học giả Kinh Thánh, viết: “Các Phúc Âm cho thấy rõ ràng rằng sự thương cảm là một động lực đằng sau công việc chữa lành của Đức Giêsu. Sự thương cảm đã thúc giục Đức Giêsu chạm đến người cùi và chữa họ lành (x. Mc 1,15-21). Sự thương cảm với cái đói của đám đông đã khiến Người nuôi họ ăn (x. Mt 14,14). Sự thương cảm… khiến Người chiêu mộ các môn đệ để thi hành cùng một sứ vụ này (x. Mt 9,36). Và sự thương cảm bà goá thành Nain đã đưa Đức Giêsu đến việc phục hồi sự sống con trai của bà (x. Lc 7,13).
Điều đó đưa chúng ta đến một điểm quan trọng về các phép lạ chữa lành của Đức Giêsu. Sự chữa lành người mù, sự chữa lành người điếc, sự phục hồi sự sống cho con trai bà goá – đây không chỉ là các dấu hiệu về lòng thương cảm của Đức Giêsu nhưng còn là dấu chỉ của một số điều khác nữa.
Đôi mắt sáng của người mù rồi cũng sẽ mờ dần với tuổi tác. Thính giác rõ ràng của người điếc cũng sẽ mờ dần. Và con trai bà goá sau cùng cũng sẽ chết khi đến tuổi già. Vậy, điều gì quan trọng hơn và bền vững hơn? Đó là các dấu chỉ cho người ta biết Đức Giêsu là ai và Người đến thế gian để làm gì. Đó là các dấu chỉ, đã được báo trước bởi các ngôn sứ, đó là Đức Giêsu là Đấng Mêsia được mong đợi từ lâu. Đó là các dấu chỉ rằng Đức Giêsu đang khai mở Vương Quốc Thiên Chúa mà đã được mong đợi từ lâu. Việc chữa lành người mù là một dấu chỉ cho dân chúng thời Đức Giêsu thấy được ánh sáng của một ngày mới. Việc chữa lành người điếc là một dấu chỉ để họ mở tai lắng nghe những gì Đức Giêsu nói. Việc phục hồi sự sống cho con trai bà goá là một dấu chỉ là họ phải tái sinh và bắt đầu một cuộc đời mới trong Vương Quốc Thiên Chúa.
Các phép lạ của Đức Giêsu là “tiếng báo động” trong lịch sử, nó làm chói tai những người thờ ơ lãnh đạm. Đó là các dấu chỉ của sự ngự đến của Vương Quốc Thiên Chúa. Và Vương Quốc này là gì? Đó là một trật tự mới, trong đó tình thương sẽ thay thế hận thù, sự lưu tâm sẽ thay thế sự vô tâm, ánh sáng sẽ thay thế tối tăm và sự sống sẽ thay thế sự chết.
Người đàn ông vô gia cư, người phụ nữ khát nước, trẻ em trần truồng, các tù nhân – giờ đây những người này sẽ tìm thấy một người bạn và người giúp đỡ, mà trước đây họ chỉ thấy người xa lạ, đi ngang qua họ như con tầu trong đêm tối. Trật tự mới này sẽ tiếp tục. Người Kitô chúng ta được kêu gọi để tiếp tục các phép lạ của Chúa Giêsu, và trở nên các dấu chỉ hy vọng, cùng nhau hoạt động để biến đổi thế giới chúng ta với tình thương và sự lưu tâm. Trong phương cách cá biệt của chính chúng ta, chúng ta sẽ là người biết thương cảm, hàng ngày thi hành loại công việc mà ông Payton đã thi hành trong câu chuyện ở trên.
Trong những lời được cho là của Thánh Têrêsa Avila: Đức Kitô giờ đây không có thân xác, nhưng có thân xác của chúng ta, không có đôi tay nhưng có đôi tay của chúng ta, không có chân nhưng có đôi chân của chúng ta. Đôi mắt của chúng ta là đôi mắt mà qua đó lòng thương cảm của Đức Kitô nhìn đến thế giới. Đôi chân của chúng ta là đôi chân mà trên đó Người bước đi để thi hành các việc tốt lành. Đôi tay của chúng ta là đôi tay mà qua đó Người tiếp tục thi hành các phép lạ trong thế giới chúng ta.
- Sự thương xót của Chúa sự sống
(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Thánh Luca, vị tông đồ viết Phúc Âm đã nhấn mạnh đến sự thương xót của Chúa Giêsu. Bài Phúc Âm ngày hôm nay là một gương mẫu mạnh nhất, lớn nhất cho việc nhấn mạnh này.
Việc cho đứa con bà góa sống lại, Chúa Giêsu đã chứng tỏ rằng Ngài là Chúa của sự sống, nhưng trong tâm trí của Thánh Luca câu chuyện này thì không hoàn toàn đặt trọng tâm rõ ràng vào người góa phụ, trong đó nhấn mạnh đến sự thương xót của Chúa Giêsu.
Hầu hết những góa phụ vào thời của Chúa Giêsu thì sống rất khó khăn. Và không có sự giúp đỡ của nhà nước: không có tiền trợ cấp, không có lương hưu, không có bảo hiểm xã hội, nói chung chỉ là những người nghèo, nếu không có việc làm. Khi Chúa Giêsu nhìn vào đoàn người đám tang trong Phúc Âm ngày hôm nay. Chúng ta có thể giả thiết rằng, một người nào đó đã thông báo cho Chúa Giêsu về trường hợp bà góa này đang chôn đứa con độc nhất của bà.
Thánh Luca đã quan sát Chúa Giêsu, thấy Ngài xúc động và động lòng thương khi nhìn thấy bà. Cảm tình của Người đã đi trực tiếp đến người đàn bà không phải là do cái chết của đứa con. Chúa Giêsu hiểu rằng thời gian khó khăn nhất của người góa phụ thì không phải bây giờ nhưng là sau đó, khi chôn cất xong bà sẽ trở về lại một mình trong căn nhà trống rỗng. Chúa Giêsu nhận thấy rằng sự đau thương của bà thì rất sâu thẳm bởi vì sợ về tương lai và bà cũng có thể khó mà sống sót được. Lúc ấy, trong tâm trí Chúa Giêsu có thể nhìn thấy người góa phụ khác trong năm tới, hoặc sau cuộc đóng đinh đi theo thân xác vô hồn của đứa con độc nhất của bà đề tới ngôi mộ. Ngài đã nói với người góa phụ “Đừng khóc nữa”. Từ chúng ta, những lời này sẽ vang lên một cách trống rỗng nhưng từ nơi Người chúng đã đem lại sự an ủi và niềm hy vọng. Chúa Giêsu đã nói những lời thương xót như thế cho người góa phụ như cho chính Mẹ Người.
Chúa Giêsu đã đụng đến cái cáng và chạm đến thân xác của người chết. Người khiêng cáng đã ý thức được Chúa Giêsu muốn cho họ dừng lại, người đàn bà chờ đợi một điều gì đó sắp sửa xảy ra và những gì Chúa Giêsu sẽ làm. Tiếp đó, bà nghe những lời đầy thương xót cũng như quyền năng: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy trỗi dậy”. Mọi đôi mắt đều hướng về người chết. Anh ta ngồi dây và bắt đầu nói. Đó không phải là giả tưởng. Sau cùng lòng thương xót của Chúa Giêsu là cho người góa phụ, Thánh Luca đã cẩn thận thêm: “Chúa Giêsu đã trao anh lại cho mẹ anh”.
Thánh Phaolô ngày hôm nay chú ý đến đặc ân ngài đã được Thiên Chúa mặc khải Con của Người cho ngài để ngài có thể rao truyền Tin Mừng cứu độ. Và đặc ân đó cho cả chúng ta nữa, qua bài Phúc Âm này theo Thánh Luca, chúng ta cũng đã được mặc khải cho Tin Mừng tình yêu của Chúa. Vị Chúa này đã Phục Sinh chúng ta từ cõi chết tội lỗi và giới thiệu chúng ta đến với mẹ thiêng liêng của chúng ta là Giáo Hội, người mẹ đó giờ đây đang nuôi dưỡng chúng ta xuyên qua những lời Thánh Kinh và bí tích Thánh Thể.
Hãy chú ý đến sự khác nhau giữa những gì tiên tri Êlisa đã làm và những gì Chúa Giêsu đã làm. Cả hai đối đầu với sự chết. Êlisa đã kêu cầu Chúa và cầu nguyện rằng: “Xin Ngài phục hồi sự sống cho đứa con của người đàn bà, còn Chúa Giêsu đã nói nhân danh Chúa và bởi quyền lực của chính mình. Ngài đã nói những lời rất quyền năng. Êlisa thật sự là một tiên tri của Thiên Chúa nhưng còn Chúa Giêsu chính Chúa của sự sống”. Chúng ta khâm phục và tôn kính vị tiên tri nhưng đối với Chúa Giêsu chúng ta lại kêu lên như trong lời tuyên xưng trong Thánh Lễ của chúng ta: “Bằng sự chết, Người đã phá hủy sự chết của chúng ta. Bằng việc sống lại Người đã phục hồi sự sống cho chúng ta”.
Tất cả chúng ta một ngày kia sẽ chết. Chúa Giêsu sẽ không đụng đến quan tài của chúng ta hoặc không nói với những người khiêng quan tài dừng lại. Thay vào đó, Ngài sẽ dùng quyền năng của Ngài để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh. Và khi đó chúng ta thật sự ngợi khen Thiên Chúa là Chúa của sự sống nhân lành.
- Lòng tin nơi dân – R. Gutzwiller
Việc Chúa Giêsu chỉ tỏ ý muốn, là người đầy tớ viên sĩ quan được chữa lành trong Tin Mừng Luca 7,1-10 là một dấu chứng nói lên uy quyền của Thiên Chúa. Còn ở đây là trường hợp phải đương đầu với một hoàn cảnh thực tuyệt vọng. Một cậu con trai đã chết. Chàng là con độc nhất của người mẹ goá. Cái chết cắt đứt mọi mối dây liên hệ và thật vô phương cứu chữa. Bà mẹ lẽo đẽo bước theo sau quan tài lòng đau như cắt, không còn nghĩ gì hơn được, hy vọng gì hơn được… Đám đông cứ tiến hành việc chôn cất, nào ai có thể làm chi hơn được? Ngay cả các môn đệ, họ chẳng hề nghĩ tới việc cầu cứu Chúa Giêsu: vì một người đã chết không phải như một cây đã trụi hết lá mà như một cây đã bị bứng cả gốc rễ. Vô phương cầu cứu.
Thế nên, chính Chúa Giêsu đã đưa sáng kiến, đã đi bước đầu. Ngài chạnh lòng thương, nghĩa là Ngài cũng khổ với ai cùng khổ. Nên Ngài ra tay cứu chữa.
Viên sĩ quan đã cậy vào quyền truyền khiến của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cũng dùng thứ quyền ấy. Ngài ra lệnh cho kẻ chết: ‘Ta bảo ngươi hãy trỗi dậy!’. Một giọng điệu đầy dũng lực, quyền uy. ‘Ta bảo người!’, Ngài không cầu cứu ai, không xin với Cha trên trời, nhưng phán quyết nhân danh chính mình, ra lệnh theo ý mình và quyền mình. Chỉ một lời nói, một mệnh lệnh đơn giản: ‘Hãy trỗi dậy!’ là kẻ chết được phục hồi sức sống.
Phép lạ phục sinh kẻ chết này lạ lùng quá, đến độ mọi người đứng đấy đều phát kinh hãi: ‘Mọi người đều sợ hãi’. Họ đã tin, và họ tôn vinh Thiên Chúa; họ công-nhận-Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người, vì Ngài đã làm nên muôn việc kỳ diệu trong dân Israel, nói lên quyền năng của Ngài. Nhưng lòng tin của họ còn khiếm khuyết. Một niềm tin chưa chạm trán với những vấn đề cốt thiết. Nó chỉ nhá nhem niềm xác tín: ‘Một tiên tri cao cả đã trỗi dậy giữa chúng ta’.
‘Dân Do thái chưa hề nhận biết thần tính nơi Chúa Giêsu và thua cả niềm tin của viên sĩ quan. Nếu Ngài chỉ là một tiên tri cao cả thôi, thì Ngài đã chẳng chu toàn điều cốt thiết nhất. Và như thế, mọi chuyện vẫn nằm trong kế hoạch bình thường của Israel, tức là thỉnh thoảng lại xuất hiện nơi Israel các vị tiên tri.
Đó chỉ là việc lập lại mà chẳng có gì mới, nghĩa là một sự nối dài dòng dõi tiên tri thôi. Trong trường hợp đó, Thiên Chúa không đích thân trực tiếp đến viếng thăm dân Người mà vẫn chỉ như xưa, là sai vị sứ giả và nhờ vị trung gian này, Ngài mới cứu giúp dân Người.
Trong khi ở đây, với Chúa Giêsu, trên thực tế, một sự mới mẻ thực sự được thể hiện; thế là chấm dứt mọi quá khứ, khởi đầu một cái gì hoàn toàn khác biệt. Quả thực, dân Do thái có lòng tin, nhưng lòng tin ấy chưa chân xác lắm. Họ có tôn vinh Thiên Chúa, nhưng chưa tôn vinh sự cao cả vô biên của Thiên Chúa. Thì đây, việc phục sinh kẻ chết phải đoan chứng cho họ thấy một sự sống mới bắt đầu tỏ lộ, vì chủ của sự sống và sự chết đang ở giữa họ.
Từ đây, không còn là vấn đề một mắt xích mới tiếp nối trong giây xích, một trang sử mới tiếp nối trong lịch sử dân Do thái nữa, mà là một đầu mối khác hoàn toàn mới mẻ. Đó là: việc phục sinh kẻ chết và bắt đầu một đời sống mới.
- Chúa thương dân khổ – Lm. ViKiNi
(Trích dẫn từ ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Nhiều gia đình buồn tủi vì không con trai, như gia đình ông bà kia nói: “Vợ chồng chúng tôi sinh chín con gái mà chưa có con trai. Ngày tết năm Giáp Dần (tháng 02/1974) nhân dịp tới Trung Chánh, chúng tôi đến khấn tại đền Thánh Giuse Mỹ Hòa. Chín tháng sau nhờ lời cầu bầu của Thánh cả, chúng tôi sinh được một con trai ngày mồng 08 tháng 10 năm 1974. Chúng tôi đặt tên thánh cháu là Giuse để trọn đời nhớ ơn ông thánh” (Châu Thủy: Thánh Giuse trong Phúc Âm 1974 trg. 19-20)
Được có con trai vui mừng biết mấy! Nhưng nếu con trai duy nhất đó chết thì khốn khổ đến chừng nào!
Bà góa trong Tin Mừng hôm nay đã đau khổ gấp đôi vì chồng đã chết rồi, nay con trai duy nhất còn lại cũng chết theo. Xã hội thời đó lại càng chất thêm nỗi khổ cho các phụ nữ neo đơn như bà. Không có chồng, không có con trai, pháp luật không cho bà được bảo lãnh về bản thân và tài sản, bà sống như kẻ bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.
Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, đến nỗi rất đông dân thành đã đi tiễn biệt con của bà. Một đám dân rất đông khác đang tiến về thành Naim đã gặp đám tang con bà tại cửa thành. Một đám vui vẻ như ngày hội, một đám buồn sầu tang tóc. Đám đông vui vẻ ồn ào đã im bặt, họ xì xèo rỉ tai nhau, tin tức về bà góa có con trai duy nhất chết làm mọi người cảm thương tội nghiệp. Một người đang lặng lẽ tiến lại trước quan tài. Người đó là Đức Giêsu. Với quyền năng của Thiên Chúa đầy thương xót những hạng người cùng khổ như bà góa này, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã mủi lòng xót thương, khẽ an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi sờ vào quan tài. Các người khiêng đứng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy!” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa…”
Người ta kinh ngạc vì chẳng mấy khi xẩy ra một biến cố lạ lùng như vậy. Mãi thời Vua Achab (874-853 A.C) mới xẩy ra hai lần người chết sống lại, một lần ngôn sứ Êlia cho bà góa thành Sarepta sống lại. “Ông đã nằm dài trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa của tôi, xin cho hồn đứa trẻ này về lại mình nó. Thiên Chúa đã nghe tiếng của Êlia và cho hồn đứa trẻ về lại nơi mình nó và nó sống lại”. (1V. 17, 21-22). Lần khác, “Êlisê vào nhà Bà Shunem (Su-nem) và này đứa bé đã chết, đặt nằm trên giường của ông. Ông vào và đóng cửa lại … Đoạn ông khẩn nguyện với Thiên Chúa. Rồi ông lên nằm trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, bàn tay ông trên bàn tay nó… thịt mình đứa trẻ nóng lên … đứa bé nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra” (2V. 4, 32-35). Thời các tông đồ ở thành Trôa, thánh Phaolô làm cho một thiếu niên chết sống lại, thánh Luca kể: “Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em … kéo dài đến mãi nửa đêm… một thiếu niên tên Êutykhô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn giảng. Vì ngủ say nên nó ngã từ tầng lầu thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”. Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít” (Cv. 20, 7-12)
Người ta kinh ngạc về cái chết phần xác được sống lại, thì càng phải kinh ngạc biết chừng nào khi được Chúa cho sống lại về cái chết phần hồn. Chết phần hồn là những cái chết của những kẻ lao đầu vào chốn nghiện ngập ma túy, cờ bạc, rượu chè, chơi bời trác táng, có những kẻ chết vì cuộc đời đen tối tuyệt vọng không lối thoát, có những kẻ chết vì tham ô móc ngoặc gian dối bất công. Có những kẻ chết vì khủng hoảng tiền của, danh vọng, địa vị, và hàng trăm thứ chết như vậy nữa. Những hạng người này khó thấy mình sầu khổ trong lúc chết. Chỉ khi nào họ thoát ra khỏi những mê hồn trận đó, họ mới thấy rùng rợn sợ hãi cho quãng đời quá khứ của họ. Họ chẳng khác gì kẻ nghiện ma túy nhờ cai nghiện được khỏi, lúc đó họ mới thấy sợ. Tất cả những cái chết tinh thần như thế đều được Chúa thương cứu sống họ trong phép Giải tội. Và thật lạ lùng, họ càng chết bao nhiêu lần thì Chúa sẽ cho họ sống lại bấy nhiêu lần. Lòng thương xót của Chúa không ai hiểu thấu.
Còn một cái chết thứ ba nữa là chết cả xác cả hồn: Cái chết này thật rùng rợn kinh khủng vì chẳng bao giờ Thiên Chúa cứu sống nó được nữa. Nó chết đời đời. Nó đã tự chọn cái chết đó, vì nó cố chấp chết trong tội lỗi như Giuđa. Trước khi Giuđa đi thắt cổ, Đức Giêsu vẫn gọi nó là bạn thân thiết. Nó đã từ chối và lao mình vào cái chết đời đời.
Lạy Chúa, Chúa đã thương cứu chữa bao nhiêu người khốn khổ. Con là kẻ khổ nhất, xin Chúa cứu chữa xác hồn con được sống lại với Chúa. Đừng để con phải chết cả hồn lẫn xác đời đời trong ngày kinh khủng ấy.
- Hãy chỗi dậy! – P. Trần Đình Phan Tiến
Người đời dù có lòng trắc ẩn đến đâu cũng đành bất lực trước cái chết của người khác. Viếng đám tang, chia sẻ nỗi buồn của người đồng loại, cầu nguyện, phúng điếu, đưa tang là những việc nói lên nghĩa cử chia sẽ với người khác nỗi đau khi mất mát người thân. Vâng! Kính thưa quý vị, không ai trong chúng ta chưa một lần chứng kiến đám tang, của thân nhân, hay của bạn bè. Đứng trước đám tang không ai khỏi chạnh lòng, nỗi đau mất mát người thân là một nỗi đau không gì có thể bù đắp được. Mất của còn có thể làm lại được, nhưng mất người thân, thì không thể tìm lại được. Vì vậy nỗi đau càng lớn hơn.
Cái chết là nỗi bất hạnh nhất của con người, vì sự sống không còn nơi thân xác nữa, không có gì quý hơn sự sống.
Đoạn Tin Mừng (Lc 7,11-17) hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng có tâm trạng đau xót trước cảnh tang tóc, Người tình cờ trông thấy một đám tang tại thành Na-in, mà là một đám tang đặc biệt, đặc biệt vì đơn độc lại càng đơn độc “đám tang con trai bà góa”, góa bụa là nỗi đau, nay mất con lại càng đau hơn. Như vậy, nỗi đau nầy là nỗi đau gấp bội, vâng! Chính Chúa Giêsu cũng cảm thấy đau như nỗi đau của Người.
Trước thái độ là người, như khách bộ hành, Chúa Giêsu cũng có thể làm ngơ, hay chắp miệng chua xót, rồi tiếp bước bỏ đi, vì sự bất lực của nhân sinh. Nhưng với quyền uy của Thiên Chúa, Người đã dừng lại khiến cho người chết chỗi dậy. Tuy chưa đến “thời giờ mà Người tỏ vinh quang”, nhưng đứng trước sự đau khổ của người khác, sự bất hạnh của nhân loại, Chúa Giêsu đã không thể làm ngơ. Chúng ta thấy, uy quyền của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu mới có thể hành động như vậy được. Người đời cho dù có lòng trắc ẩn đến đâu cũng đành bất lực trước thần chết. Nhưng Chúa Giêsu thì không, Thiên tính của Người tiêu diệt tử thần . Phép lạ nầy không phải để “lấy le”, ra oai với mọi người, mà là tiên báo, Người sẽ làm chủ thần chết, vượt qua tử thần, và chính Người sẽ làm như vậy. Điều nầy còn nói lên ý nghĩa, dù là Con Thiên Chúa, Nhưng Chúa cũng phải bước qua tử nạn rồi mới đến phục sinh. Như vậy, đức tin cho thấy rằng dù tin vào Đức Kitô, nhưng con người cũng phải chịu đau khổ và chết chóc theo quy luật tự nhiên. Vì muốn sống lại tất nhiên phải bước qua sự chết. Nếu người con trai bà góa thành Na-in không chết, thì anh ta đâu có được sống lại. Vì vậy, chúng ta thấy cuộc tử nạn của Chúa GIÊSU là hữu lý, dù là Thiên Chúa, nhưng Người đã mặc lấy nhân tính, thì Người cũng phải bước qua cái chết. Vậy chết không còn là sự sợ hãi, nỗi bất hạnh cho con người có niềm tin vào Đức Kitô. Vì chính Chúa là sự sống và là sự sống lại cho con người.
Điều thứ hai: cho thấy sự sống ở đời nầy là sự sống tạm, vì sự sống trần gian rồi sẽ mất đi, rồi sự sống vĩnh cửu sẽ đến. Hình ảnh Chúa Giêsu cho con trai bà góa thành Na-in sống lại là một niềm hy vọng cho tất cả những ai tin vào Đức Kitô. Hình ảnh sống lại theo nghĩa đen của con trai bà góa thành Na-in là một ý nghĩa tiên trưng cho sự sống lại của nhân thế, nếu tin vào ơn cứu độ.
Đừng trước cái chết của người có niềm tin, chúng ta chỉ có bổn phận cầu nguyện và đặt trọn lòng tin vào Thiên Chúa, vì không ai là không thể chết, vì chết là một nỗi bất hạnh, nhưng chết trong Đức Kitô thì không bao giờ là nỗi thất vọng, bởi vì chính Chúa đã chết cho chúng ta.
Về thời gian thì chúng ta có phúc hơn con trai bà góa thành Na-in, bời vì anh ta chỉ hưởng ơn phục sinh nhãn tiền rồi sau đó về già anh ta cũng phải chết, rồi cũng phải chờ đến ngày Chúa Giêsu quang lâm thì anh ta mới được phục sinh thật sự. Còn chúng ta được hưởng ơn cứu độ qua cuộc tử nạn của Chúa Giêsu thì chúng ta sẽ được phục sinh khi chúng ta đặt trọn niềm tin vào Người.
Vậy chết không còn là nỗi sợ hãi khi chúng ta tin vào Thiên Chúa, nhưng sự chết vẫn xảy ra, vì đó là quy luật tự nhiên, và hơn thế nữa sự sống siêu nhiên mới là sự sống đích thực, và Chúa Giêsu không hứa ban bạc vàng cho những ai bước theo Người, nhưng Người hứa ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người.
Lạy Chúa Giêsu, Người là sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, vì vậy nơi Người không có sự chết, nhưng Người phải bước qua cuộc tử nạn để đến phục sinh. Xin thương ban cho chúng con biết cậy trông vào Chúa để có sự sống viên mãn. Amen.
- Niềm tin sống lại từ cõi chết – Lm. Anmai
Con người được Thiên Chúa dựng nên là để sống và sống hạnh phúc. Ngài không làm ra cái chết. Chính vì thế mà sự chết luôn luôn đi ngược lại bản năng và ước vọng của con người và luôn làm cho họ hoảng sợ. Ngày Chủ nhật là cơ hội tốt để đánh thức niềm tin Ki tô của chúng ta bởi khi cử hành sự Phục sinh của Đức Ki tô, chúng ta tường niệm Ngài đã chiến thắng sự chết để dành lại sự sống cho chúng ta.
Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng về niềm tin của chúng ta về sự sống lại của con người là như thế. Thiên Chúa Hằng Sống! Thiên Chúa hiện sống, Thiên Chúa hằng sống để rồi những ai tin vào Thiên Chúa cũng sẽ được hưởng vinh quang trong Nước của Thiên Chúa.
Thiên Chúa Hằng Sống và Ngài quyền năng trên tất cả muôn vật muôn loài, Thiên Chúa là chủ con người, là chủ của sự sống này.
Trải qua dòng chảy lịch sử cứu độ, niềm tin vào Thiên Chúa Hằng Sống và là chủ của sự sống được xác tín, được tuyên xưng trên môi miệng của các ngôn sứ, của những người tin Chúa, của những người nói lời Thiên Chúa….
Ông Gióp là một người giàu có và có lòng kính sợ Thiên Chúa, nhưng rồi bao nhiêu tai nạn dồn dập đã xảy ra trên đời sống ông: con chết, tài sản tiêu tan và chính ông mắc phải một chứng nan y không thuốc thang nào chữa trị được. Vợ ông trước hoàn cảnh đó chẳng những không thông cảm lại còn lên tiếng chế nhạo, còn những người bạn thì cho rằng ông tội lỗi đầy mình nên mới nên nông nỗi đó. Trong hoàn cảnh đau khổ và cô đơn tột cùng, ông Gióp đã thốt lên, bày tỏ niềm tin của ông nơi Thiên Chúa.
Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi vẫn sống, đến lúc cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất. Sau khi da tôi tức xác thịt nầy đã bị tan nát, bấy giờ ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Đức Chúa của tôi.
Đây là câu nói đầy hy vọng vì hai lý do: Thiên Chúa là Đấng hằng sống và có đời sống sau khi chết. Dù trong hoạn nạn, bệnh tật và tang tóc, ông Gióp biết rằng Thiên Chúa là Đấng hằng sống. Ông gọi Ngài là Đấng Cứu Chuộc hàm ý chính Chúa là Đấng giải cứu cả hồn lẫn xác. Và cũng chính niềm tin tưởng nơi cuộc sống đời sau giúp ông có thể thốt lên câu nói sau: “Sau khi da tôi tức xác thịt nầy đã bị tan nát, bấy giờ ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Đức Chúa của tôi.” Ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Đức Chúa của tôi đó chính là niềm tin và hy vọng của người tin Chúa. Chúa sống và chúng ta sẽ được cùng sống với Chúa.
Lời của một con người đau khổ là ông Gióp cho chúng ta thấy rằng sự sống chúng ta đến từ Thiên Chúa. Chúa ban cho, Chúa cất đi, tất cả nằm trong tay Ngài. Nhưng Thiên Chúa không phải là Ông Trời oái oăm chúng ta thường than trách. Ngài là Đấng yêu thương, dẫn dắt, thử rèn để chúng ta nên người. Ngài là Đấng sống và niềm tin của chúng ta nơi Chúa sẽ đưa chúng ta đến chỗ sống với Chúa đời đời.
Với ngôn sứ Isaia thì Isaia công bố rằng: Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế. Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy. (Is 25, 6-8).
Quyền năng của Thiên Chúa làm chủ sự sống hôm nay chúng ta thấy được qua ngôn sứ Êlia.
Ngôn sứ Êlia phục sinh con gái bà góa Sarépta hôm nay chúng ta vừa được nghe lại (1V17,17-24), hay tiên tri Êlisê cứu sống con trai bà Sunamita (2V4,18-37) phải khẩn cầu quyền năng của Thiên Chúa trước khi ra tay làm phép lạ. Quyền năng diệu kì đó cho thấy Chúa Giêsu chính là Chúa của sự sống.
“Thiên Chúa không làm ra cái chết”: Không chỉ là chết thể xác mà còn cả cái chết thiêng liêng đưa con người vĩnh viễn rời xa Thiên Chúa. Cuộc sống sau cái chết không phải là niềm tin được tất cả mọi người chấp nhận: người Pharisêu thì tin, còn người Sađukêô thì không. Nói chung, người ta vẫn tin rằng số phận của tất cả mọi người sau cái chết đều giống nhau, đó là một cuộc sống ở âm phủ xa cách Thiên Chúa. Phần thưởng và hình phạt diễn ra ngay ở đời nầy: sống lâu, đông con nhiều cháu, giàu sang. Sách Khôn ngoan khẳng định một cách chắc chắn phần thưởng là cuộc sống với Thiên Chúa dù không nói đến sự sống lại của thân xác. Bài tin mừng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là Chúa của sự sống khi phục sinh người con trai duy nhất của bà góa.
“Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ.”, đó là lời hứa của Đức Giêsu, một lời hứa đem lại niềm hy vọng cho biết bao người qua muôn thế hệ. Các tông đồ thấy dấu lạ nước hoá thành rượu ở Cana thì đã tin vào Đức Giêsu. Những người Do thái khi thấy Đức Giêsu mở mắt người mù từ thuở mới sinh và hôm nay họ lại chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho Lazarô sống lại, thì cũng đã tin vào Người. Và chính nhờ tin vào Đức Giêsu, biết bao nhiêu người đã có đủ can đảm, để vượt qua mọi thử thách, đau khổ trong cuộc sống hàng ngày. Còn chúng ta hôm nay thì sao? Mỗi ngày chúng ta cũng đang chứng kiến biết bao nhiêu là dấu lạ Thiên Chúa đang thực hiện quanh ta, thế nhưng chúng ta có tin không?
Nếu ta có được một niềm tin vào Thiên Chúa, thì những cách ứng xử trong cuộc đời ta sẽ mang một dáng dấp khác hẳn. Ta không phải là những người lúc nào cũng sợ tương lai, hoặc chỉ sống cho hiện tại. Cuộc sống hằng ngày của tôi sẽ mang một nét đặc biệt khác, trong viển tượng vượt qua, từ một “giấc ngủ” Chúa Giêsu sẽ đánh thức ta một ngày nào đó. Ta sẽ có một niềm xác tín khác và một sự bình an thanh thản lớn hơn trong tâm hồn.
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, chớ gì ngay từ giờ phút này, mỗi người chúng ta xác tín hơn vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy quyết tâm gắn bó với Chúa nhiều hơn qua việc siêng năng và sốt sắng tham dự Thánh lễ và hiệp lễ, để nhờ có Đức Giêsu trong mình, mỗi người chúng ta cũng sẽ nhận được sự sống muôn đời, như lời Ngài đã hứa. Amen.
- Sự sống hay nỗi chết – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một vị ẩn sĩ nọ, ngày kia lạc vào một hang động. Tại đây ông đã khám phá ra một kho tàng với không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Nhưng ông đã vội vã ra khỏi hang, vừa chạy vừa la thất thanh: “Tôi đã thấy thần chết”.
Tình cờ ba tên cướp đi ngang qua đó, nghe tiếng kêu của vị ẩn sĩ, họ dừng lại hỏi chuyện.
Muốn chứng tỏ mình là những người không biết sợ là gì, ba tên cướp yêu cầu đưa họ đến gặp thần chết. Vị ẩn sĩ dẫn họ vào hang động và chỉ vào kho tàng. Mắt họ sáng lên và lập tức ba tên cướp tống cổ vị tu hành ra khỏi hang.
Nhưng kho tàng quá lớn, họ không thể mang ra tất cả trong một ngày. Sau một hồi bàn cãi ba tên cướp đồng ý để một người ra phố mua sắm lương thực. Hai người còn lại ngồi đó canh giữ kho báu.
Người được sai đi chợ nghĩ thầm trong bụng: “Ta sẽ ăn uống no nê, sau đó bỏ thuốc độc vào thức ăn. Hai tên khốn nạn sẽ chết và ta sẽ chiếm trọn kho tàng”.
Hai tên ngồi canh giữ kho báu cũng bàn với nhau: “Chúng ta sẽ giết hắn. Và như thế phần của mỗi người chúng ta sẽ nhiều hơn”.
Khi kẻ mang lương thực về đến hang động. Họ liền giết hắn và nuốt trọn thức ăn có thuốc độc. Thế là cả ba đã cùng nhau đi gặp thần chết như lời vị ẩn sĩ tiên báo.
Vì tham lam của cải mà ba sinh mạng đã bị thần chết cướp đi trong nháy mắt. Vì chạnh lòng thương xót người quả phụ cô độc, hôm nay Đức Giêsu đã giật lại khỏi tay thần chết con trai duy nhất của bà góa thành Naim.
Đức Giêsu đã can thiệp mau lẹ, xử lý nhanh gọn, ra tay tức thời, không chờ đợi người ta cầu xin, nài nỉ. Người nhìn rõ nỗi buồn mất con, Người hiểu thấu nỗi cô đơn của bà góa không nơi nương tựa, Người liền an ủi: “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Rồi Người sờ vào quan tài và nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy” (Lc 7,14)
Thiên Chúa yêu thương con người vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Vì bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, nên Người muốn giải thoát con người khỏi nỗi cô đơn buồn phiền, khỏi thất vọng đắng cay, khỏi đau thương tuyệt vọng. Và nỗi đau thương tuyệt vọng lớn nhất của con người là sự chết, thì Người cũng sẵn lòng giải thoát con người khỏi chết.
Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại ở đó. Người còn muốn đi xa hơn nữa trong tình yêu: Người muốn giải thoát con người khỏi cái chết muôn đời. Con trai bà góa thành Naim sống lại để rồi lại phải chết, nhưng những ai được Người yêu thương giải thoát thì sẽ vĩnh viễn sống lại miên trường. Đó mới là sứ mạng của Người khi xuống trần gian.
Sự kiện con trai bà góa thành Naim được Người cho sống lại chính là hình bóng báo trước biến cố vô cùng lớn lao hơn. Biến cố đó là cốt lõi của đạo, là trung tâm điểm của Kitô giáo: Đó chính là nhờ sự chết và sống lại của Đức Giêsu mà tất cả chúng ta được giải thoát khỏi cái chết muôn đời.
Thiên Chúa yêu thương con người, Người muốn giải thoát con người khỏi lưỡi hái của tử thần, nhưng con người vẫn có tự do để chọn sự sống hay nỗi chết. Ba tên cướp vì tham lam của cải đã chọn cho mình hai cái chết: cái chết của thể xác và cái chết của linh hồn. Trong cái hang tử thần ấy không chỉ có những con người tham của mà còn vô số những kẻ tham danh vọng, địa vị, chức quyền; không chỉ có những người mê của mà còn hằng hà những kẻ mê hút sách, rượu chè, cờ bạc, trai gái.
Cái chết phần xác thì ai cũng sẽ trải qua một lần trong đời, nhưng cái chết phần hồn thì chỉ có những con người can đảm, bền chí và trung thành với Đức Kitô và giới luật của Người mới có thể vượt qua để sống viên miễn với Người trên nơi vĩnh phúc.
Lạy Chúa, chúng con ước mong được chết để cùng sống lại vinh quang với Người. Nhưng trước khi chết xin cho chúng con biết dứt lòng từ bỏ những gì là xấu xa của ma quỷ, thế gian và xác thịt để chúng con được tự do thong dong về với Chúa là Cha đầy yêu thương. Amen.
- Tình người của Thiên Chúa rất đáng khâm phục
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Làng Naim ở phía nam Nagiarét. Thánh Luca là một y sĩ, cho nên điều dễ hiểu là bài tường thuật của ông về phép lạ con trai bà góa sống lại đượm một tình người nồng thắm. Đức Giêsu được thánh chép sử xưng tụng là Đức Chúa. Các bộ Phúc Âm được viết sau biến cố Phục Sinh. Do đó Đức Giêsu trở nên Đức Chúa có mọi quyền năng dưới đất cũng như trên trời. Từ ngữ Đức Chúa ở đây gợi ý một tương quan với sự phục sinh của chính Đức Kitô. Đức Giêsu có mọi quyền năng trên sự chết, Người giải thoát những kẻ khác, cũng như Người đã tự giải thoát khỏi sự chết. Đức Giêsu chạm tay vào người chết, một lần nữa chúng ta thấy Người tự cho mình quyền tự do xử sự đối với những vật mà Lề Luật coi là ô uế, vì luật định rằng chạm tay vào một người chết là trở nên ô uế, phải thanh tẩy cho hết dơ bẩn. Phép lạ này đám đông chứng kiến và nhìn nhận. Dân chúng phản ứng theo lối thông thường, họ khiếp sợ nhưng không vì thế mà lòng họ thay đổi. Một sự kiện phi thường rất khó lay động tâm hồn người ta, chỉ gây sợ hãi, kinh hoàng, đôi khi khiến kẻ chứng kiến phải suy nghĩ, nhưng chỉ lát sau đâu lại hoàn đấy, người ta trở lại suy nghĩ hành động theo những điều vốn chất chứa trong lòng. Người ta hiểu được tại sao những phép lạ của Đức Giêsu không tự động làm phát sinh đức tin –giả sử là thế sẽ không đúng cung cách Thiên Chúa. Qua các phép lạ, Thiên Chúa ra dấu, Người không ép buộc con người. Chúng ta đối chiếu phép lạ hôm nay với phép lạ con bà góa ở Serepta được Chúa cho sống lại. Phép lạ Serepta là một điềm báo tiến thêm một bậc, phép lạ Naim là một sự loan báo. Thực tại được báo trước là sự phục sinh của Đức Giêsu –thực tại toàn diện sẽ là sự sống lại ngày sau hết. Tất cả suy luận trên cho chúng ta thấy hai sự thật:
1) Chúng ta không sống trong một thế giới đóng kín trong giới hạn của sự chết.
Thoạt xem, chết là dứt điểm mọi tiến hóa, mọi sinh hoạt. Vậy mà Đức Giêsu đã can thiệp bằng công việc và bằng bản thân, Chúa cho thấy sự thể khác hẳn. Thậm chí, đã có lần Thiên Chúa ủy nhiệm cho những người như ngôn sứ Elia quyền năng trên sự chết. Những sự can thiệp rõ ràng của sức mạnh Thiên Chúa không đi ngược trật tự thiên nhiên, nhưng cốt đáp ứng nguyện vọng sâu sắc nhất của thiên nhiên. Thiên nhiên miễn cưỡng chịu đựng hiện tượng sự chết, và ai cũng biết rằng bản năng sâu sắc trong bất cứ sinh vật nào là bản năng tự tồn. Giữa ước nguyện của thiên nhiên và phép lạ phục sinh có một sự phù hợp mật thiết. Tử thần phải chăng là tên cai ngục canh giữ nhà lao người ta quen gọi là thế giới? Thiên Chúa cho thấy nghĩ thế là lầm.
2) Nếu thế giới không phải là một lao tù, ý nghĩa thế giới là gì?
Nếu thế giới không phải là một sự phi lý, thế giới hướng về đâu? Đức Kitô giải đáp câu hỏi ấy bằng phương pháp đi vào định mệnh nhân loại và kéo nó theo hướng định mệnh của Chúa. Đức Chúa có một trái tim cảm thông với trái tim chúng ta. Người xúc cảm rất tự nhiên với nỗi sầu đau của bà góa ở Naim trước xác chết con bà (có thể lúc đó Người liên tưởng đến nỗi sầu đau của một bà mẹ khác, buổi chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, dưới chân thập giá…). Có thể nói rằng lòng thương cảm nhân đạo của Đức Giêsu làm phát động quyền năng của Thiên Chúa có trong bản thể Người. Chúa cho anh thanh niên sống lại, nghĩa là Người làm một dấu tỏ rõ ý nghĩa sự can thiệp của Người giữa nhân loại. Chúa kêu gọi loài người trở lại sự sống, một sự sống toàn diện (linh hồn được cứu rỗi, thân xác được sống lại) sẽ ban cho bất cứ ai không từ chối tin vào Chúa.
- Nên giống Trái Tim Chúa – Lm. Nguyễn Nguyên
Tâm lý thường tình của con người là “ăn có mời, làm có khiến”. Đây quả là một nguyên tắc xử thế rất hay. Tuy nhiên, vì cuộc sống luôn có biến đổi, nên con người không thể đóng khung vào nguyên tắc, hơn nữa nếu cách cư xử giữa người với người mà chỉ căn cứ vào nguyên tắc thì điều đó chắc chắn sẽ giết chết tình cảm và mọi sự tế nhị trong liên hệ giữa người với người. Đoạn tin mừng mà chúng ta vừa nghe như muốn chứng minh điều ấy.
Thật thế, khi cùng đoàn môn đệ đến một thành nhỏ tên là Nain, vừa vào trong cổng thành, thì bị cắt ngang đường bởi một đám ma đang khiêng người con trai duy nhất của một bà goá ra chốn mộ phần. Dẫn đầu đám tang là bà mẹ, theo sau là đám đông cư dân trong thành cùng đi theo để đưa tiễn chàng trai đến nơi chín suối. Hơn một lần phải tiễn đưa người chồng đến nơi an nghỉ cuối cùng, bà đã thấm thía nỗi đau của sự mất mát. Ấy vậy mà hôm nay, đứa con trai duy nhất, núm ruột bà đứt ruột sinh ra, và là niềm hy vọng cho tuổi già của bà, lại cũng đành đoạn bỏ bà ra đi.
Thế nhưng, mọi sự đã thay đổi khi đoàn người của sự chết gặp đoàn người của sự sống mà dẫn đầu là Chúa Giêsu. Lẽ ra Ngài đã đi ngang qua hay đợi cho đến khi người ta gọi Ngài. Nhưng Ngài đã không làm thế. Ngài đã có sáng kiến đi bước trước, Ngài đã chạnh lòng thương xót mà cho người con trai bà sống lại, dù không một ai, bà mẹ hoặc những người đi đưa đám cầu xin Ngài giúp đỡ. Như thế, Chúa Giêsu đã thực hiện một phép lạ không phải vì Ngài là con người hoàn toàn như chúng ta nên cũng có mọi xúc cảm của con người như buồn phiền, khóc thương… cũng không dựa theo nguyên tắc xử thế của con người mà chỉ vì lòng Chúa yêu thương.
Từ thái độ của Chúa Giêsu, nhìn về cách sống của bản thân ta, ta thử hỏi xem ta đã biết cách sống yêu thương mọi người đi ngang qua con đường đời ta hay chưa, liệu ta có quan tâm đến những bất hạnh của họ hay không, và mối quan tâm ấy có dẫn đưa ta tới chỗ hành động một cách hiệu quả hay chưa; hay biết bao lần trong đời nhìn thấy những cảnh đời thương tâm, thế mà ta vẫn ngoảnh mặt làm ngơ, rồi tự xoa dịu sự áy náy lương tâm mình bằng nhiều lý lẽ. Thế nhưng, dù có lý lẽ nào đi nữa thì chúng vẫn không thể biện hộ cho sự chai lỳ, dửng dưng của ta về sự thiếu lòng yêu thương.
Thế nên, lời Chúa hôm nay là một lời mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết quan tâm và cảm thông đến những bất hạnh của người khác, biết “chạnh lòng thương” đến những người đau khổ quanh ta. Tuy nhiên, thái độ cảm thông và thương xót của chúng ta cần phải được bộc lộ qua những việc làm, phải được ưu tiên thể hiện ra với những người mà chúng ta đang chung sống, với những người Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta, ngày lại ngày, trong gia đình, trong cộng đoàn, với tất cả những ai đang cần yêu thương nâng đỡ nhất. Nếu như chúng ta từ chối nhiều cơ hội chợt đến với mình mỗi ngày để thực thi bác ái yêu thương cho những người thân thuộc trong gia đình, giữa nơi xưởng thợ, chốn văn phòng, hay cho những người cộng sự cùng làm việc bên cạnh chúng ta, thì chúng ta chỉ là những người như câu ca dao cha ông ta thường nói “làm phúc nơi nao mà cầu áo rách nát”, và như vậy thì chúng ta chỉ là những người “khoe mã” mà thôi.
Vậy, xin Chúa Giêsu là nguồn tình yêu, biến đổi trái tim chai đá của chúng ta mà thay vào đó là trái tim bằng thịt để chúng ta thấy được nhu cầu và biết rung động, thông cảm, sớt chia với hoàn cảnh của những người sống chung quanh, để chúng ta có thể vui với người vui, buồn với kẻ buồn. Xin Ngài biến đổi chúng ta thành những người sống và san sẻ niềm vui hạnh phúc cho mọi người mọi nơi mọi lúc. Đồng thời cũng xin cho mỗi chúng ta biết nhìn ra Chúa không chỉ đến an ủi, đem lại cho con người sự phục sinh thân xác mà còn là sự sống đời sau, để chúng ta luôn biết nghe lời Chúa kêu gọi, từng ngày bước ra khỏi sự trói cột của ma quỉ, tội lỗi mà sống trong sự sáng của Thiên Chúa. Amen.
- Chết rồi sống – Lm. Trịnh Ngọc Danh
Chết là một trong bốn nỗi khổ của kiếp sống con người: Sinh, bệnh, lão, tử. Ai cũng muốn sống lâu, sống trường thọ; nhưng ước vọng ấy cũng chỉ là ước vọng. Chết là số phận mà ai ai cũng phải một lần đi qua.
Có người chết vì tuổi già, có người chết vì bệnh hoạn, chết vì tại nạn, chết vì chiến tranh… Không ai muốn chết và cũng không ai hay biết được giờ nào mình phải ra đi. Nhưng có những cái chết làm bàng hoàng người sống, mang nhiều nỗi nhớ thương, đó là cái chết vào tuổi thanh xuân, khi cuộc sống mới bắt đầu chớm nở.
Phải chết đi mà lại được sống lại, thật là một niềm vui khôn tả đối với người chết và người thân đang sống. Hôm nay chúng ta được nghe thuật lại hai trường hợp chết đi sống lại của hai người trẻ tuổi.
Sau khi làm phép lạ cho hũ bột không vơi, vò dầu không cạn đủ cho hai mẹ con bà goá ở Xarépta và cho mình sống lâu ngày, tiên tri Êlia được tạm trú tại nhà bà goá. Thế rồi bất ngờ, con bà ngã bệnh và chết. Bà khóc lóc trách móc Êlia đã mang cái xui xẻo đến cho bà. Êlia bồng lấy đứa trẻ bà đang ẵm trong tay, đem lên phòng trên chỗ ông ở và đặt nó nằm lên giường. Ông nằm lên trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn viá đứa trẻ này lại về với nó!” và Thiên Chúa đã nghe lời ông kêu cầu. Đứa trẻ đã sống lại. Đó là chuyện xảy ra trong thời Cựu Ước.
Vào thời Tân Ước, thánh sử Luca lại thuật lại một việc sống lại khác như sau: Chúa Giêsu cùng các môn đệ và đám đông đi đến thành Naim. Khi gần đến cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng một người chết đi chôn; người chết là con trai duy nhất của một bà goá. Thấy bà khóc thảm thiết, Chúa Giêsu chạnh lòng thương; Ngài tiến lại gần, sờ vào quan tài và nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy!” Chàng thanh niên liền ngồi lên và bắt đầu nói.
Cả hai người chết đều là những người chết trẻ, lại là những người con duy nhất của những bá góa. Con là niềm vui và hy vọng cho tương lai của hai bà trong lúc tuổi già. Thế mà những đứa con duy nhất của họ đã ra đi. Còn nỗi buồn nào hơn nỗi buồn mất đứa con yêu dấu của mình!
Êlia không trực tiếp làm cho người chết sống lại. Ông phải kêu cầu vào quyền năng của Thiên Chúa; còn Chúa Giêsu là Đấng có quyền lực trên sự sống và sự chết, trên thân xác và linh hồn, Ngài đã ra lệnh cho người chết sống lại.
Trong trường hợp đứa bé của bà góa ở Xarépta sống lại, có một điểm chúng ta cần lưu ý, đó là lời cầu xin của Êlia: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn viá đứa trẻ này lại về với nó!”
Đứa trẻ của con bà góa ở Xarépta đã chết. Linh hồn đã lià khỏi xác. Tiên tri Êlia đã ba lần nằm lên đứa bé đã chết để truyền sinh khí cho nó, nhưng sinh khí ấy cũng chưa đủ để làm cho đứa bé sống lại; ông đã phải xin Thiên Chúa cho thần khí của đứa trẻ trở lại với thân xác. Hồn trở về với xác và đứa trẻ đã sống lại.
Như thế, chúng ta có thể xác tín rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Con người là một thực thể đơn nhất gồm hồn và xác, vừa thể xác vừa tinh thần: “Thiên Chúa lấy đất sét nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên một sinh vật” (St. 2:7). Linh hồn là sự sống, là sự toàn diện, là cái thâm sâu nhất của con người, là cái giá trị nhất nơi con người; nhờ đó con người là hình ảnh của Thiên Chúa cách đặc biệt: linh hồn là nguyên lý thần linh nơi con người. Linh hồn bất tử. Thân xác chết, nhưng linh hồn vẫn sống.
Nhưng đứa trẻ kia, chàng thanh niên nọ, hay người đầy tớ của người sĩ quan kia hay ông Lagiarô, Chúa cho họ sống lại là vì lòng xót thương nỗi đau khổ của người thân đang sống. Họ được sống lại, nhưng rồi cũng phải chết. Chết hai lần!
Sinh ký tử quy. Con người phải chết, đó là điều tự nhiên.
Chết là chấm đứt khoảng thời gian chúng ta có mặt trên trần thế. Trong khoảng thời gian ấy, con người thay đổi, già đi rồi chết, bệnh hoạn rồi chết, tai nạn rồi chết…không ai biết được cái chết sẽ đến lúc nào.
Nhờ cái chết, chúng ta biết thân phận mình có hạn, nhưng với con mắt đức tin, chết là linh hồn lià khỏi xác. chết là ra đi, chết là trở về để chờ ngày phục sinh cùng với thân xác. Chết là kết thúc cuộc lữ hành trần thế, kết thúc thời gian Thiên Chúa gia ân và thương xót để chúng ta sống cuộc đời trần thế theo ý Chúa và quyết định số phận tối hậu của mình. Muốn được phục sinh với Đức Kitô, chúng ta cũng phải chết với Ngài.
Chết không phải là sự đau buồn mất mát, nhưng là một niềm mong đợi như thánh Phaolô đã nói: “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kito”.( Pl. 1:23); đối với thánh nhân: “Sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi” (Pl 1: 21) và thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trước những giây phút cuối cùng của cuộc sống cũng đã nói: “Tôi không chết, nhưng đang bước vào cuộc sống”.
Khi chết, linh hồn lià khỏi xác. Thân xác lâm cảnh hư nát trong khi linh hồn đến gặp Thiên Chúa.
Bất cứ cảnh tang chế nào cũng đau buồn. Là những người đang sống, chúng ta khóc thương cho người thân đã chết. Đau buồn trước mất mát của người thân yêu là điều tốt và cần thiết; nhưng trong cảnh đau thương ấy lại là một niềm vui cho người quá cố. Đức tin là một sự an ủi và nâng đỡ người sống trong lúc có tang chế, nó làm cho chúng ta đau buồn trong niềm hy vọng sẽ gặp lại những người thân yêu. Họ ra đi để trở về với sự sống vĩnh cửu. Họ chết nhưng lại không chết. Họ chết về thân xác nhưng linh hồn vẫn sống. Họ chỉ thay đổi thế giới. Họ không trở lại với chúng ta nhưng rồi chúng ta sẽ đi gặp họ. Những người chết là những người ra đi trước chúng ta. Khóc thương người chết là khóc thương cho số phận linh hồn của họ không biết thế nào sau cái chết hơn là cho thân xác. Cầu nguyện cho các linh hồn là chúng sống liên kết với họ.
Đứa con của vua Đavít với vợ ông Urigia bị bệnh nặng. Vua Đavít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất. Các kỳ mục trong nhà của vua nài nỉ xin vua trổi dậy, nhưng vua không chịu và cũng không ăn uống chút gì với họ. Đến ngày thứ bảy, đứa bé chết. Triều thần vua Đavít sợ không dám báo cho vua biết đứa bé đã chết, vì họ bảo nhau: “Khi đứa trẻ còn sống, chúng ta đã nói với đức vua, nhưng ngài không nghe. Bây giờ làm thế nào để nói với ngài là đứa bé đã chết? Hẳn ngài sẽ làm liều!” Thấy triều thần thầm thì với nhau, vua Đavít hiểu là đứa trẻ đã chết. Vua Đavít hỏi triều thần: “Có phải đứa bé chết rồi không?” Họ thưa: “Vâng, chết rồi!”.
Bấy giờ vua Đavít từ dưới đất trỗi dậy, tắm rửa, xức dầu thơm, thay quần áo; rồi vua vào Nhà Đức Chúa mà phủ phục. Trở về nhà, vua yêu cầu người ta dọn bữa và vua đã ăn. Triều thần nói với vua: “Ngài làm gì vậy? Khi đứa bé còn sống, thì ngài ăn chay và khóc lóc vì nó. Khi đứa bé chết rồi, thì ngài lại trỗi dậy và dùng bữa!” Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc, vì ta tự bảo: Biết đâu Đức Chúa sẽ thương ta và đứa bé sẽ sống! Bây giờ nó chết rồi, ta ăn chay làm gì? Hỏi rằng ta còn có thể làm cho nó trở lại được không? Ta đi đến với nó, chứ nó không trở lại với ta”. ( 2Sm, 12: 16-23)
Chúa Giêsu không nói: Ta là sự sống và là sự sống lại, nhưng Ngài nói: Ta là sự sống lại và là sự sống”. Sống lại với Đức Kitô để rồi như Ngài sống vinh hiển trong Nước Thiên Chúa. “Nếu ta cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ cùng sống lại với Ngài”( 2Tm 2: 11)
Thánh Phaolô đã cho chúng ta một kinh nghiệm sống: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay, tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl. 2:20).
Sống là cảnh giác những gì mà tác giả thánh vịnh đã xin: “Lạy Chúa, tôi ca tụng Chúa vì đã giải thoát tôi, và không để quân thù hoan hỉ về tôi. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn tôi thoát xa âm phủ, Ngài đã cứu tôi khỏi số người đang bước xuống mồ”. ( Tv. 29)
Mọi người đã chết đều sẽ phục sinh. “Ai đã làm điều lành thì sẽ sống lại để được sống, ai đã làm điều dữ thì sẽ sống lại để bị kết án” ( Ga. 5:29)
Chỉ có sự phục sinh trong ngày sau hết mới thực sự đem thân xác và linh hồn chúng ta vào cõi sống vĩnh hằng.
Sống là chuẩn bị chết; và chết là đi vào cõi sống. Chúng ta đã, đang và sẽ chuẩn bị gì cho sự sống sau cái chết?
- Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Trải qua lịch sử ơn cứu độ, toàn bộ Kinh Thánh đã trình thuật rất nhiều phép lạ. Thiên Chúa trực tiếp hoặc qua các sứ giả đã thực hiện nhiều phép lạ vĩ đại để can thiệp làm thay đổi tiến trình của luật tự nhiên. Nhưng phép lạ làm cho kẻ chết sống lại thì rất họa hiếm: Thời Cựu ước, Tiên tri Êlia đã cầu xin Thiên Chúa ban lại sự sống cho một bé gái. Trong sách Các Vua đã tường thuật sự kiện cứu em bé của Êlia: Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ và kêu cầu Thiên Chúa rằng: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, con xin cho hồn vía đửa trẻ này lại trở về với nó!: (1Vua 17, 21). Tiên tri đã cầu khẩn cùng Thiên Chúa ban đặc ân cho bà góa và con trai yêu quí của bà. Lời cầu đã được Thiên Chúa nhậm lời:Thiên Chúa nghe tiếng ông Êlia kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó và nó sống (1Vua 17, 22).
Khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, Chúa đã hoàn sinh cậu con trai của bà góa. Anh ta chết nằm trong quan tài đang trên đường đưa đi chôn:Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiên dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy (Lc 7, 14). Và Phúc âm còn kể sự kiện Chúa Giêsu cho ông Lazarô chết và đã chôn trong mồ đã bốn ngày, được sống lại. Đây là Tin Mừng. Tin Mừng tuyệt vời nhất là chính Chúa Giêsu đã chịu chết, chôn trong mồ và đã tự mình sống lại. Chúng ta tin rằng con người gồm có hồn và xác. Thân xác bao gồm các thành phần của vật chất nên chịu ảnh hưởng của luật đào thải tự nhiên. Giống như sự kết cấu của muôn loài: Xác thân vật chất được sinh ra, phát triển, già nua và chết. Sự sống của con người bị giới hạn trong thân xác. Khi thân xác không còn đủ điều kiện sống, xác hồn lìa nhau. Thân xác sẽ mục nát hư thối và tiêu tan theo ngày tháng. Hồn được về qui ẩn nơi hằng sống.
Theo luật thời gian đào thải, mọi loài và mọi vật có lúc sinh và lúc tử. Đời này nối tiếp qua đời kia, chúng ta không biết đã có bao nhiêu đời đi trước. Thế giới vẫn tiếp tục xoay vần và sự sống được tiếp tục truyền sinh. Giống nào theo giống đó, loài nào theo loài ấy. Đời sống con người lâu nhất cũng chỉ vỏn vẹn trên dưới một trăm năm. So sánh cuộc đời một người với đời đời cũng chỉ là một dấu chấm rất nhỏ trong không gian và thời gian. Mỗi con người được sinh ra mang một số phận. Kẻ trước người sau theo nhau đi về nguồn cội. Quan sát cuộc sống, chúng ta nhận biết rằng các loài thụ tạo đều có một khởi điểm và chung kết rất khác biệt. Số phận mỗi người kết thúc một cách.
Suy tư về sự sống và sự chết, con vẫn nhớ hình ảnh của chú em đã qua đời cách đây gần một năm. Chỉ trong vòng một tháng, cuộc đời đã biến đổi. Trước đó sức khỏe tương đối, tuy nhiên có vài triệu chứng sụt cân và mệt mỏi. Khi đi khám bệnh, các bác sĩ chẩn đoán có dấu hiệu ung thư hạch. Thế là tinh thần xuống dốc như xe không thắng. Chỉ sau hai tuần, thân xác trở nên tiều tụy, gầy còm và bệnh hoạn. Thân xác thì yêu đuối và tinh thần thì lo lắng nhưng vẫn giữ lòng trông cậy và hy vọng. Thế rồi, điều gì phải tới đã tới. Ung thư lan nhanh khắp thân thể. Kéo theo những triệu chứng của lục phủ ngũ tạng suy xụp. Bác sĩ đành bó tay. Trở về gia đình được khoảng 10 ngày. Chú nằm thoi thóp, đau đớn và chuẩn bị tinh thần bước sang thế giới bên kia. Thần chết đang rình chực.
Người thân trong gia đình trong tư thế sẵn sàng chờ đợi một cuộc ly biệt ngàn thu. Tâm tư vừa hồi hộp, vừa lo lắng bồn chồn và buồn đau. Chỉ biết cầu xin cho người thân được ơn chết lành. Trước giờ chết, chú đã vẫy tay chào mọi người và xin tiếp tục cầu nguyện. Con chứng kiến cái sống và cái chết kề cận. Chú đã sống cho tới chết. Có nghĩa là một thân xác cường tráng khỏe mạnh đã bị yếu liệt từ từ cho tới hơi thở cuối cùng. Sau cùng, hơi thở nhẹ dần và ngưng thở. Hồn lìa xác. Chết! Chú đã qua đời. Chú đã qui tiên tổ. Thật đau lòng. Mất mát quá lớn. Khoảng cách lại qúa xa. Từ thế giới kẻ sống đi vào thế giới bên kia. Bước hững vào lẽ vô thường. Thế là kết thúc một cuộc đời dương thế.
Niềm tin càng xác tín. Mọi người chỉ biết bám víu vào Chúa Kitô. Vợ con và bà con thân tộc qúa thương tiếc. Không ai dám xin Chúa ban cho sống lại nhưng chỉ xin cứu lấy linh hồn người thân. Đối diện trước cái chết, niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh là tuyệt đối. Niềm hy vọng hưởng phúc bên Chúa là một an ủi lớn lao nhất. Niềm tin vào Chúa là sức mạnh tuyệt vời giúp chúng ta đối diện với cái chết. Giờ đây chết không phải là hết mà là hiện diện với chúng ta một cách khác. Đã có rất nhiều Hội đoàn, gia đình và anh chị em, bạn bè đến chia buồn, cầu kinh và tham dự lễ an táng. Những lời kinh hòa nhập với những giọt nước mắt đau thương mất mát đã làm vơi đi những sầu đau. Chúng ta phó thác và tin tưởng hoàn toàn vào lòng từ nhân của Thiên Chúa.
Trong hai bài đọc lễ Chúa Nhật 10 quanh năm, chúng ta nghe hai câu truyện về hai cái chết và được ban lại sự sống. Hai người bị mắc bệnh nguy kịch và đã chết. Bà mẹ buồn đau than trách tiên tri Êlia, Êlia đã cầu xin Chúa. Vì lời than khóc của bà góa, Chúa đã thương ban lại sự sống cho anh thanh niên:Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ (Lc 7, 15). Hai người được sống thêm một thời gian trên cõi đời rồi cũng sẽ phải chết. Sự can thiệp quyền năng của Thiên Chúa là một niềm hy vọng và Tin vui mừng cho cả nhân loại. Chúa có uy quyền ban sự sống, cất sự sống, trao lại sự sống và ban cho sự sống đời đời.
Thánh Phaolô đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng. Ngài xác tín Tin mừng do chính Chúa mạc khải:Thật vậy, thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin mừng tôi loan báo không phải là do loài người (Gal 1, 11). Đây là một đặc sủng riêng biệt, chính Thiên Chúa đã chọn và sai Ngài đi rao giảng tin vui cho mọi người: Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người (Gal 1, 15). Tin mừng cứu độ là hồng ân Chúa ban cho nhân loại qua chính Con của Ngài. Tin mừng mang lại niềm hy vọng của sự sống và sự sống lại. Chúa của sự sống đã can thiệp vào cuộc sống tự nhiên của con người. Đón nhận tin mừng là đón nhận sự đổi đời, hối cải và bước vào con đường sự sống.
Chúa ban sự sống cho hết mọi loài nhưng sự sống lại là để hưởng vinh phúc đời đời cần có sự cộng tác của con người. Chúng ta phải ước muốn, yêu thích, nuôi dưỡng, tận tâm tìm kiếm và thực hành sống niềm tin. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng sự sống lại và sự sống đời sau. Chúng ta cần có điểm khởi hành và hướng về cùng đích. Tất cả mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống đạo đều góp phần vào mục tiêu sau cùng. Chúng ta không thể sống đạo một cách nửa vời, giai đoạn hay khoảng thời gian. Kitô hữu là Kitô hữu suốt đời. Sống đạo can đảm trong mọi trạng huống của cuộc đời. Chúng ta cần tránh những thái độ tương đối hoặc âm ấm. Sự thật không nằm ở sự đồng ý của nhiều người và cũng không theo ý muốn của con người. Sự thật của Tin Mừng cứu độ được ban cho chúng ta qua chính Đức Kitô Phục Sinh.
Lạy Chúa, Chúa là nguồn ban sự sống. Xin cho chúng con biết tôn trọng sự sống ngay từ lúc khởi đầu cho đến khi lìa đời cách tự nhiên. Thiên Chúa ban sự sống đời này và Chúa hứa ban cho chúng con sự sống đời sau. Một hồng ân vô cùng cao quý. Chúng con xin dâng lời tạ ơn Chúa đã cho chúng con được sinh ra làm con người, làm con Chúa và được hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.
- Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
CHÚA ĐỘNG LÒNG THƯƠNG VÀ BẢO BÀ RẰNG: “ĐỪNG KHÓC NỮA”
Bước vào Chúa nhật X thương niên, Giáo hội muốn giúp chúng ta khám phá ra khuôn mặt của một Vì Thiên Chúa tình thương, qua chính con người, lời nói cũng như việc làm của Đức Giêsu làm cho con trai bà góa thành Na-in chỗi dậy từ cõi chết. Đây là dấu chỉ vĩ đại của Thiên Chúa là làm cho kẻ chết sống lại bởi đặc tính của Ngài là làm cho sống, khiến cho dân chúng phải kêu lên: “Một vị ngôn sứ vĩ đại xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người.” (Lc 7, 16)
Sống mãi, sống vui và sống hạnh phúc là ước muốn của con người. Tiếc thay, cái chết là rào cản lớn nhất khiến con người buồn sầu, thất vọng. Đức Giêsu phục sinh con trai bà góa thành Na-in chứng tỏ Thiên Chúa viếng thăm không chỉ một số người Ít-ra-en, mà là toàn thể nhân loại; không chỉ hoàn sinh để rồi lại chết như một vài trường hợp được sống lại từ cõi chết, nhờ đó con người hy vọng và tin tưởng: Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của con, con còn sợ người nào? Chúa là thành lũy bảo vệ đời con, con khiếp gì ai nữa? Chính bọn thù địch, bọn làm khổ con phải lảo đảo té nhào. (Ca nhập lễ)
* Bài đọc Phụng vụ Năm A
– Ôs 6, 3-6: Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ
– Tv 50, 1: Chúng ta hãy tiến bước trên đường của Chúa
– Rm 4, 18-25: Abraham vững tin mà làm sáng danh Chúa
– Mt 9, 9-13: Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi
* Bài đọc Phụng vụ Năm B
– St 3, 9-15: Loan báo cuộc chốn Satan
– Tv 130, 1: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi và Chúa rất giầu ơn cứu độ
– 2 Cr 4, 13 à 5, 1: Niềm hy vọng của thánh Phaolô trong những cơn thử thách
– Mc 3, 20-35: Chúa Giêsu chống lại Satan
* Bài đọc Phụng vụ Năm C
– 1 V 17, 17-24: Êlia, Thiên Chúa đã cho con trai bà góa sống lại.
– Tv 30, 3: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa, vì Chúa giải thoát tôi.
– Gal 1, 11-19: Tin Mừng của Thánh Phaolô không phải do loài người
– Lc 7, 11-17: Đức Giêsu cho con bà góa thành Nain sống lại
Thiên Chúa là Đấng tốt lành, vì yêu thương, đã tạo dựng con người, và cho con người chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, vì yêu thương, Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người trong đau khổ, Ngài chữa lành mọi bệnh tật, trả lại sự sống cho con người, mang lại cho con người sự bình an, niềm hy vọng. Thiên Chúa vẫn mãi mãi là Thiên Chúa yêu thương con người. Nếu như thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã nhận lời Ngôn sứ Ê-li-a cầu xin Chúa cho đứa con của bà goá nghèo thành Xê-rép-ta được sống (1 V 17,17-24), thì thời Tân Ước, trước nỗi đau khổ tột cùng của bà goá thánh Na-im khi đứa con duy nhất, là niềm vui, chỗ dựa tinh thần của bà chết, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương, cho anh thanh niên trỗi dậy từ cõi chết, mang lại niềm vui mẹ anh và cho mọi người.
Thiên Chúa luôn đồng hành với con người, bởi con người được sáng tạo giống hình ảnh Chúa. Con Thiên Chúa là Đức Giêsu đã làm người, sống kiếp phận con người, để phục hồi phẩm giá con người đã bị méo mó do tội lồi.
Năm Đức Tin, kỷ niệm 50 năm khai mở Công đồng Vaticanô II. Hiến chế (Gaudium et Spes), • 22 dậy chúng ta rằng:
Chúa Kitô, Con Người Mới là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Col 1,15), chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của Adam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch. Bởi vì nơi Người bản tính nhân loại đã được mặc lấy chứ không bị tiêu diệt, do đó chính nơi chúng ta nữa bản tính ấy cũng được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt. Bởi vì, chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.
Là Chiên vô tội Người tự ý đổ máu ra để cho chúng ta được sống, và chính trong Người Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa và hòa giải giữa chúng ta với nhau cũng như đem chúng ta ra khỏi ách nô lệ của ma quỉ và tội lỗi, do đó mỗi người chúng ta đều có thể nói như Thánh Tông Đồ rằng: Con Thiên Chúa “đã yêu thương tôi, lại hiến thân cho tôi nữa” (Gal 2,20). Chịu đau khổ cho chúng ta, không những Người nêu gương để chúng ta theo vết chân Người, nhưng Người còn mở ra con đường mới để nếu chúng ta theo Người thì sự sống và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới.
Con người Kitô hữu khi trở nên giống hình ảnh Chúa Con là Trưởng Tử trong đoàn anh em đông đúc, họ nhận được “những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần” (Rm 8,23)… Nhờ Thánh Thần làm “bảo chứng cho quyền thừa tự” (Eph 1,14), toàn thể con người được canh tân từ nội tâm cho tới khi “thân xác được cứu rỗi” (Rm 8,23): “Nếu Thánh Thần Chúa là Đấng đã khiến Chúa Giêsu từ kẻ chết sống lại cư ngụ trong anh em, chính Đấng đã khiến Chúa Giêsu Kitô từ kẻ chết sống lại đó cũng sẽ làm sống động thân thể hay hư nát của anh em nhờ Thánh Thần Ngài ở cùng anh em” (Rm 8,11)…
Đó là tính chất và sự cao cả của mầu nhiệm con người, mầu nhiệm được Mạc Khải Kitô giáo soi sáng cho các tín hữu. Vậy nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô bí ẩn về đau khổ và sự chết được sáng tỏ, bí ẩn đó đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến Phúc Âm. Chúa Kitô đã sống lại nhờ sự chết của mình. Người đã hủy diệt sự chết và Người đã ban cho ta dồi dào sự sống để là con cái trong Chúa Con chúng ta kêu lên trong Thánh Thần: Abba, lạy Cha!
- Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lc 7:11-17)
Tin Mừng Lu-ca nói nhiều đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với kẻ tội lỗi, những người cùng khốn trong xã hội và cả những người dân ngoại. Câu chuyện Chúa Giêsu cho con trai bà góa thành Na-in sống lại là tường thuật duy nhất chỉ có thánh Luca ghi lại. Bà góa thành Na-in này nằm trong số những người cùng khốn được Chúa đoái thương. Điều khiến người ta kinh sợ, đó là quyền năng của Chúa Giêsu làm cho người đã chết được sống lại. Nhưng có lẽ điều làm cho chúng ta cảm động chính là những gì Chúa Giêsu làm cho kẻ còn sống, những gì Người đã phục hồi cho một bà mẹ đã mất mát tất cả khi đứa con trai duy nhất qua đời.
Trong câu chuyện, điều đầu tiên Chúa Giêsu làm cho bà góa thành Na-in là “trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: ‘Bà đừng khóc nữa’”. Chúa Giêsu không chỉ trông thấy bà bằng con mắt, nhưng bằng trái tim. Một cái nhìn lập tức nảy sinh ra lòng thương xót. Không chạnh lòng thương sao được khi nhìn thấy một bà mẹ khóc vật vã, lảo đảo đi bên cạnh xác đứa con trai duy nhất! Mất chồng, bà ký thác tất cả đời mình vào tương lai của đứa con trai này. Nhưng thần chết đã cướp mất nó, để lại cho bà một thiếu vắng không có gì bù đắp được. Có lẽ chúng ta cũng nhiều lần đến với những người bạn có người thân qua đời và nói ít lời an ủi. Rồi có thể chúng ta cũng đã lập lại chính những lời Chúa nói với bà góa thành Na-in: “Thôi đừng khóc nữa”. Nhưng chúng ta chỉ có thể làm những gì trong khả năng của mình, hoặc chưa biểu lộ được lòng thương cách trọn vẹn. Chúng ta thử tưởng tượng ra cung cách của Chúa Giêsu khi Người nói với bà góa: “Bà đừng khóc nữa”. Chúa nói những lời này với tất cả tình yêu thương, bằng ánh mắt hiểu được tận cùng nỗi đau khổ của bà và với giọng nói dịu dàng an ủi làm rung động trái tim bà. Tuy nhiên bên cạnh cung cách biểu lộ “lòng thương”, những lời nói của Chúa Giêsu còn đem lại niềm hy vọng đích thực, một bảo đảm rằng “vị ngôn sứ vĩ đại” này chắc chắn sẽ làm một việc gì đó để tỏ ra một cách cụ thể lòng thương xót của Người. Biểu lộ cụ thể ấy là Chúa đã đến gần người chết, truyền lệnh cho anh ta trỗi dậy.
Cử chỉ thứ hai Chúa Giêsu làm đối với bà góa thành Na-in là sau khi cho con trai bà sống lại, Người “trao anh ta cho bà mẹ”. Thanh niên này đâu còn phải là một đứa bé, vậy mà Chúa trao anh ta cho bà mẹ! Chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu đã “chạnh lòng thương” trước mất mát quá lớn lao của bà mẹ này thế nào, thì Người cũng “chạnh niềm vui” khi Người làm một cử chỉ của bà mẹ trao con cho bà mẹ đã mất mát như vậy! Chúng ta cũng thử tưởng tượng ra khuôn mặt Chúa lúc trao anh ta cho bà mẹ. Ánh mắt Người chứa đựng cả một trời sao vui. Nụ cười rạng rỡ của Người như bình minh rực lên nắng hồng. Thần chết đã tàn nhẫn cướp đi mọi sự của bà thì giờ đây Chúa Giêsu giành lại và trao tận tay cho bà. Cử chỉ trao lại của Chúa quả thực đầy ắp ý nghĩa. Chúng ta không nghe nói gì thêm sau khi Chúa trao lại cho bà người con. Nhưng chắc chắn đã có hai cuộc sống lại: người con trai duy nhất đã sống lại thể xác và bà mẹ góa đã sống lại phần tinh thần và tình cảm. Những cuộc sống lại ấy đều là kết quả do việc Chúa chạnh lòng thương!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sách Tin Mừng Lu-ca nhiều lần xưng hô Chúa Giêsu là “Chúa”. Trong câu chuyện hôm nay, Chúa Giêsu không chỉ là vị ngôn sứ vĩ đại, nhưng là Chúa, là “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Với quyền năng Thiên Chúa, Người đã viếng thăm bà góa thành Na-in, phục hồi sự sống cho con bà và cả bà nữa. Trong cuộc sống đầy khó khăn và thử thách, bị mất mát quá nhiều, có khi nào bạn nghe Chúa nói “Con đừng khóc nữa” không? Hoặc có khi nào Chúa đến gần, chạm vào con người thiêng liêng của bạn đã chết do tội lỗi và truyền lệnh: “hãy trỗi dậy!” không? Có thể bạn đã gặp một mất mát quá lớn khi một người thân yêu qua đời, lúc ấy bạn có để cho Chúa “trao lại” cho bạn niềm vui và bình an đã mất hay không? Rồi sau khi đã được phục hồi, bạn hãy cùng với mọi người tôn vinh và loan truyền Chúa Giêsu cho thế giới!
- Dấu chỉ thành Naim – André Sève
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Chúng ta đang đứng trước một mạc khải lớn của Tin Mừng được viết ra do thánh Luca: lòng thương của Chúa chỉ có một câu ngắn trong đó từ ‘thương xót’ nói lên tất cả: “Vừa thấy bà, Chúa liền động lòng thương: bà đừng khóc nữa!”
“Vừa thấy bà”. Khi Chúa Giêsu nhìn thì chính Thiên Chúa nhìn. Chúng ta chỉ hiểu được Tin Mừng ngày nào mà chúng ta nhận rõ được điều này: Chúa Giêsu là cái nhìn phàm nhân của Thiên Chúa. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa nói với chúng ta Ngài nhìn chúng ta như thế nào. Điều này không được mạc khải cho chúng ta qua các triết gia, qua các thần học gia cũng như qua các nhà thần bí mà là qua phản ứng của Chúa Giêsu: vào một ngày nọ, tại cổng thành Naim, Ngài đã thấy một góa phụ đi bên quan tài của đứa con trai độc nhất.
Luca nói: “Chúa Giêsu động lòng thương”. Đây là lời nói có sức mạnh mạc khải mà tất cả các nhà chú giải đều nhấn mạnh đến. Lời đó có nghĩa là: bối rối, thương xót. Trong Tin Mừng lời này chỉ được dùng để nói Tình Yêu Thiên Chúa đối với con người mà thôi. Chúa Giêsu “thương xót” đám đông, những người bệnh tật; người cha của đứa con hoang đàng (nghĩa là Thiên Chúa) “động lòng thương” khi thấy lại con trai của mình. Chúng ta có nghĩ rằng Thiên Chúa nhạo báng chúng ta khi làm cho chúng ta nghĩ rằng Ngài động lòng thương hay không?
Ở đây Ngài chứng tỏ điều đó: Chúa Giêsu bị động lòng do một trong những nỗi bất hạnh lớn nhất trên trái đất chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng cảm nghiệm sự đau khổ của con người, trong khi không thể chịu đựng được đau khổ hơn chúng ta: “Bà đừng khóc nữa”. Đây là một lòng thương xót có hiệu quả. Bằng một lời nói, với sự giản đơn của quyền năng toàn vẹn, Ngài làm cho sống lại: “Hãy trỗi dậy!” Một cử chỉ tế nhị kết thúc việc chứng minh cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa: “Ngài trao nó lại cho mẹ nó!”. Ngài không trả lại con cho tôi… Ngài không trả lại cô vợ ba mươi tuổi của tôi… Ngài không trả lại vị Linh mục trẻ mà chúng tôi cầu nguyện cho rất nhiều.
Đây vẫn luôn luôn là bí ẩn đó và sự hiểu lầm đó. Không phải Chúa Giêsu đã đến và đang đến để sửa chữa đau khổ ở đây hoặc ở kia, Ngài đến để sửa chữa tất cả. Việc cậu con trai thành Naim sống lại vừa là một cử chỉ thương yêu mãnh liệt, vừa là dấu hiệu của một lòng thương xót vô cùng mãnh liệt: Thiên Chúa hành động vì sự cứu độ thế giới và vì cuộc sống vĩnh cửu của chúng ta. Chúng ta sẽ đau khổ biết bao nếu đứng trước mỗi cái chết, chúng ta nghĩ: hết rồi, tất cả đều chấm dứt.
Chắc chắn bà mẹ thấy con mình sống lại thì hết sức hạnh phúc. Còn đám đông thấy điều khác, đó là“Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài”. Chúng ta, những người đang đọc Tin Mừng, chúng ta phải –thậm chí đang ở trong nỗi đau khổ lớn lao- để cho dấu chỉ của thành Naim mở lòng của chúng ta ra cho toàn bộ thực tế mầu nhiệm của việc Chúa đến viếng thăm.
Lòng thương xót của Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng chúng ta được yêu thương. Nhờ Ngài, Thiên Chúa làm một chuyến viếng thăm không thể tưởng tượng được: đích thân đến thăm chúng ta, cứu chuộc và sống lại theo những điều kiện trên trái đất này.
Vâng, nhưng ở đây trí khôn của chúng ta chựng lại: công việc cứu chuộc dẫn đưa Chúa Giêsu đến thập giá, công việc này để cho các bậc cha mẹ bị tan nát cõi lòng mãi mãi, cho đến tận thế, rồi những bạo lực và ích kỷ, làm sao hiểu được công việc cứu chuộc? Đâu là những biện pháp và cái nhìn của Thiên Chúa? Chúng ta muốn ít ra là Ngài giải thích công việc đó cho chúng ta.
Chúa làm điều đó, điều mà chúng ta gọi là Mạc Khải, nghĩa là tất cả những điều mà Thiên Chúa đã đặt dần dần trong tầm hiểu biết, và tấm lòng của chúng ta qua Thánh Kinh: quan điểm của Ngài, công cuộc sáng tạo và ơn cứu độ của Ngài, sự nhẫn nại và tình yêu của Ngài, Tình Yêu của Chúa! Tình yêu này sẽ luôn luôn vượt lên, bằng chiều rộng và chiều sâu trên điều mà chúng ta có thể hiểu được.
Không cấm việc đặt câu hỏi với Chúa. Đây cũng là một cách để yêu mến người Cha, tất cả các bậc cha mẹ đều biết điều này. Nhưng đây phải là cuộc đối thoại của một con người đặt câu hỏi với Thiên Chúa trong khi biết rằng con người sẽ nhận được những câu trả lời mà một con người có thể nắm và chuyển tải.
– Lạy Chúa, sau những gì đè bẹp chúng con vào lúc này, làm sao có thể nghĩ rằng Ngài yêu thương chúng con? Ngài đã để cho xảy ra, Ngài ở xa, Ngài im lặng.
– Ta không ở xa đâu. Ta đã đến tận thành Naim. Ta không im lặng đâu. Khi Ta nói: “Hãy trỗi dậy!” Ở Naim, thì đó là Ta nói với tất cả những người bị đè bẹp, với tất cả những người chết. Cho đến tận cùng, một con người vẫn có thể trỗi dậy, và một ngày nào đó tất cả mọi người sẽ trỗi dậy.
- Ngài vẫn còn làm phép lạ – Mark Link
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)
Chủ đề: Việc làm cho con trai bà góa trong Phúc Âm sống lại tiên báo Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta vào cuộc sống vĩnh cửu
Khó có một nhà đạo diễn phim nào dàn dựng được một pha hấp dẫn như quang cảnh được ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay. Thánh sử Luca đã trình thuật lại quang cảnh này như sau: “Khi Chúa Giêsu tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim… đám dân đông đúc chen lấn theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành, thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà góa nọ”. Để mục kích rõ hơn quang cảnh này, chúng ta hãy tưởng tượng mình đang ở trên một chiếc trực thăng cùng với đoàn làm phim có máy ghi hình từ xa đang quay lại diễn biến đó. Nhìn từ trên trực thăng xuống, chúng ta thấy một thị trấn nhỏ có một bức tường chắn chung quanh. Phía bên trong tường thành chúng ta thấy một đám người bận toàn bộ đồ tang đen đang từ từ bước ra cổng chính, còn phía ngoài tường thành, có một đám đông khác cũng đang tiến lại cái cổng đó vừa đi vừa cười cười nói nói huyên thuyên. Vài phút sau đó, cả hai đám đông này cùng gặp nhau tại trạm dừng ở cổng thành. Và lúc đó điều ngoạn mục đã xảy ra.
Từ trong đám đông phía ngoài cổng thành, Chúa Giêsu bước ra đi thẳng tới cỗ quan tài, đoạn vừa cầm tay người thanh niên chết nằm trong đó, Ngài vừa phán: “Hỡi chàng thanh niên, Ta truyền cho anh hãy trỗi dậy”. Lập tức một sự yên lặng kinh hồn phủ xuống trên cả hai đám đông. Ai nấy đều như ngộp thở khi nhìn thấy chàng thanh niên bắt đầu cử động. Kìa chàng ta sống lại rồi! Thánh sử Luca kết thúc trình thuật trên bằng những lời sau đây: “Dân chúng đều rất sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa”.
Bây giờ, chúng ta hãy nhắm mắt lại tưởng tượng pha kế tiếp sau đó nhé! Màn đêm buông rơi, chúng ta đang ở trong thành phố Naim. Công viên trung tâm đầy người đang chúc mừng và kháo láo với nhau về phép lạ vừa rồi. Một cụ già nói với người bạn: “Này, ông cắt nghĩa thế nào về sự kiện xảy ra ngày hôm nay? Tại sao Ngài Giêsu đã làm phép lạ ấy? Phải chăng chỉ vì xót thương mụ góa nọ?”. Cụ già kia suy nghĩ một lúc rồi đáp: “Không, theo tôi nghĩ thì không phải chỉ vì lý do đó thôi đâu. Chúng ta phải đặt phép lạ ấy trong toàn bộ những chuỗi phép lạ khác của Ngài nữa chứ; chẳng hạn chữa lành người ốm, cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe… Bộ ông không nhớ lời tiên tri Isaia đã loan báo à? Tiên tri có nói rằng khi Nước Chúa đến, tức là khi Đấng Mêsia xuất hiện, thì sẽ xảy ra một số dấu hiệu để minh chứng, chẳng hạn: “Mắt người mù sẽ mở, tai kẻ điếc sẽ thông, người què sẽ nhảy như nai và người câm sẽ ca hát được” (Is 35,5-6). Tôi nghĩ rằng phép lạ ngày hôm nay càng làm rõ dấu hiệu cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến và đồng thời cho thấy Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia được Thiên Chúa hứa ban”.
Bây giờ, chúng ta hãy quay về với giáo đường này ngày hôm nay. Chúng ta phải cắt nghĩa phép lạ trên như thế nào sau hơn 20 thế kỷ qua? Chúa Giêsu muốn nói gì với chúng ta qua phép lạ đó?
Để trả lời câu hỏi này chúng ta hãy nghe câu chuyện sau: Linh mục thừa sai Paul Belliveau ở Maryknoll cai quản một trong những giáo xứ đặc biệt nhất thế giới. Giáo xứ này gồm khoảng 11 ngàn người tỵ nạnSalvador sống trong một trại tập trung ở Honduras. Đa số họ là phụ nữ, trẻ em và người già. Họ giống như những tù nhân bị giam lỏng, bởi vì chung quanh trại, đám lính luôn canh chừng không cho họ trốn chạy đi tìm tự do ở nơi khác chẳng hạn như ở Mỹ. Đây là hai đoạn trích từ một quyển nhật ký mà Linh mục Belliveau còn giữ lại. Đoạn thứ nhất được ghi lại vào một ngày Chúa Nhật, nội dung như sau: Tôi để ý thấy nhiều dân tỵ nạn cứ dán mắt vào những tấm ván hở để nhìn ra phía ngoài nhà nguyện khi có 18 người lính gác Honduras đi ngang qua trại. Tôi cảm thấy hình như họ rất sợ hãi. Biết bao nhiêu lần chính mắt họ đã từng nhìn thấy những toán lính vũ trang như thể tiến vào giết chóc và tiêu diệt làng mạc của họ tại El Salvador. Tôi đã phải trấn an họ trước khi chúng tôi tiếp tục Thánh lễ. Đoạn thứ hai đề ngày thứ ba, nội dung như sau: Khi đến khu trại số 5, tôi thấy có nhiều phụ nữ đang đọc kinh trong nhà nguyện. Tôi bước vào và ngồi xuống. Khoảng 80 phụ nữ đang gẫm Đàng Thánh Giá. Mỗi một chặng ngắm họ đều so sánh nỗi đau đớn của Chúa Giêsu với khổ đau mà dân tỵ nạn đang gánh chịu. Hai người phụ nữ kể cho tôi rằng họ đã đặt tên cho nhóm của mình là ‘Nhóm các bà mẹ mất con vì bạo lực ở El Salvador’. Trong khi nói chuyện với đám phụ nữ, Linh mục Belliveau nhìn thấy nơi khuôn mặt họ nỗi đau đớn mà Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi khuôn mặt bà góa thành Naim. Cha hết lòng ao ước phải chi cha có thể làm cho những người con đã chết của họ sống lại giống như Chúa Giêsu đã làm cho con trai của bà góa nọ. Nhưng tiếc thay Belliveau không phải là Chúa Giêsu. Nhưng rồi vị Linh mục chợt nhận thấy một điều gì đó. Cha nhận ra rằng lúc này đây, Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện thực sự trong nguyện đường này giống như Chúa đã từng hiện diện nơi làng Naim hơn 2000 năm về trước; và hơn thế nữa, Chúa Giêsu vẫn đang thực hiện nơi nhà nguyện bé nhỏ này phép lạ còn vĩ đại hơn phép lạ tại Naim nữa; Vì nhờ lời cầu xin của các phụ nữ góa bụa này, Chúa Giêsu không phải chỉ phục sinh đám con cái họ về mặt thể lý, vì điều này cũng sẽ chỉ kéo dài nhiều lắm là 30-40 năm, trái lại, Ngài ban cho lũ con ấy cuộc sống vĩnh cửu, như lời Ngài đã phán: Đây là ý Chúa Cha: Hễ ai thấy Chúa Con và tin vào Ngài sẽ được sự sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày tận thế (Ga 6,40). Và bỗng dưng, Linh mục Belliveau nhận ra rằng phép lạ Chúa Giêsu thực hiện cho các tín hữu còn vĩ đại hơn nhiều so với phép lạ Ngài đã làm cho con trai bà góa thành Naim.
Đây là sứ điệp Chúa Giêsu muốn gửi đến chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay. Ngài muốn chúng ta nhìn thấy nơi phép lạ thành Naim không chỉ là dấu chứng lòng thương của Ngài đối với bà góa nọ, cũng không chỉ là dấu hiệu minh chứng Ngài là Đấng Mêsia, mà còn là dấu chỉ báo trước điều Ngài sẽ thực hiện cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Ngài, nghĩa là Ngài sẽ làm cho chúng ta sống lại không phải chỉ với một thân xác mới mẻ về mặt thể lý mà còn với một cuộc sống trường tồn vĩnh cửu nữa. Đó chính là Tin Mừng Ngài ban cho chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay. Tin Mừng mà chúng ta cùng tụ họp nơi đây để hân hoan mừng kính.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện:
Ôi đôi tay Chúa Giêsu, đôi tay từng chạm vào mắt kẻ mù lòa để đem lại cho họ thị giác. Xin hãy chạm vào đôi mắt chúng con để mắt chúng con nhìn thấy Chúa.
Ôi đôi tay Chúa Giêsu, đôi tay từng chạm vào lỗ tai kẻ điếc để phục hồi thính giác cho họ. Xin hãy chạm vào tai chúng con để tai chúng con nghe thấy Chúa.
Ôi đôi tay Chúa Giêsu, đôi tay từng chạm vào thân xác người thanh niên làm cho thân xác ấy được sống. Xin hãy chạm vào chúng con để chúng con được sống muôn đời.
- Suy niệm của Lm. Văn Quy & Lm. Trần Văn Khả
(Trích dẫn từ ‘Phúc Âm Chúa Nhật’)
- TÌM HIỂU
Câu truyện này chỉ có một mình thánh Luca kể lại. Ngài kể tiếp theo câu truyện chữa tên đầy tớ của viên sĩ quan La mã. Nhưng không cho biết rõ thời giờ, chỉ tả về sự việc xẩy ra ở Naim.
Naim, nay là một làng nhỏ cách Capharnaum độ 7, 8 giờ về phía nam núi Tabor, gần Djebel Dahin. Naim không cách Sunem bao xa, nơi mà tiên tri Êlidê đã làm cho con bà chủ nhà trọ sống lại. Gần làng, về phía đông, người ta đã khoét vào núi những lỗ sẵn dùng để chôn cất. Naim, một thành nhỏ chỉ có một cửa để đi về đồng quê và ra nơi chôn cất.
Thường thường việc chôn cất làm cuối ngày, có lẽ lúc buổi chiều. Đức Giêsu đi vào trong thành thì gặp đám xác ở trong thành đi ra, ngay ở cửa thành.
Theo thói tục Đông phương, người chết để trong áo quan không đậy nắp, và đã được quấn khăn liệm kỹ lưỡng. Cùng đi với Chúa Giêsu có môn đệ và một số đông dân chúng. Đám xác có đông người tham dự.
Điều đó quan trọng để chứng minh việc sống lại này có thật chứ không giả tạo. Chàng thanh niên đã sống lại thật sự:
– Anh đã đứng lên và bắt đầu nói được.
– Chúa cầm tay trao lại cho mẹ cậu.
– Thái độ sửng sốt sợ hãi của mọi người làm chứng một biến cố quan trọng đã thực sự xẩy ra.
– Việc sống lại đã được loan truyền khắp vùng.
Câu truyện kể một cách rất đơn sơ, không có chi tiết của một câu truyện hoang đường.
“Trông thấy bà, Chúa động lòng thương”. Trong bài tường thuật này chúng ta cũng nên chú ý một điểm: đây là lần thứ nhất mà thánh sử dùng chữ ‘Chúa’ để chỉ về Chúa Giêsu.
Phép lạ chứng tỏ lòng nhân hậu của Chúa: lý do trước nhất khiến Chúa làm phép lạ mà thánh sử ghi nhận là “Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: Đừng khóc nữa”.
Lòng thương xót biểu lộ trong câu nói: “Thôi đừng khóc nữa”. Đây là lời chia buồn với khổ chủ. Thái độ của Chúa còn biểu lộ trong cử chỉ rất nhã nhặn đem cậu trả cho mẹ. Đứa con là hy vọng độc nhất của bà và đã là căn cớ cho bà đổ không biết bao nhiêu là nước mắt.
Quyền năng Chúa biểu lộ qua câu nói: “Hỡi chàng thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy trỗi dậy”.
So sánh với câu truyện sống lại kể trong 1V 18, 17-24 và 2V 4, 18-36 do tiên tri Êlia và tiên tri Êlidê, ta thấy có một sự khác biệt căn bản. Hai tiên tri Êlia và Êlidê đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử động biểu tượng. Còn Chúa Giêsu chỉ phán có một lời, không cầu, không xin, chỉ ra có một lệnh, tức khắc chàng thanh niên sống lại.
Cảm giác của dân chúng
– Đầu hết sợ sệt.
– Sau họ ca ngợi Thiên Chúa, Đấng duy nhất có thể làm được những việc như thế.
– Quan niệm về thời kỳ cứu chuộc sống động lại trong tâm hồn dân chúng.
Hiệu quả: Danh tiếng Chúa đồn khắp xứ Giuđêa, và các vùng lân cận, vào cả trong ngục thất nơi giam cầm vị Tiền hô. Vì thế ngài đã sai sứ giả đến hỏi Chúa về sứ mạng của Chúa
- ÁP DỤNG THỰC HÀNH
1) Êlia làm sống lại con trai bà quả phụ ở Sarepta
Trong thời gian Êlia đang ở trong nhà bà quả phụ thì cậu con trai của bà ngã bệnh, và bệnh tình trầm trọng đến nỗi cậu ngã ra chết, vô phương cứu vãn.
Bà quả phụ quá buồn thưa với tiên tri rằng: ‘Hỡi người của Chúa, ngài với tôi có liên quan gì chăng? Ngài đến nhà tôi để nhắc lại những lỗi lầm thầm kín của tôi làm cho Chúa giết chết con tôi’. Vị tiên tri nói với bà: Đem nó lại đây. Rồi ông bế lấy đứa nhỏ khỏi tay mẹ nó, đem lên phòng cao nơi ông ở và đặt nó trên giường. Ông kêu cầu Đức Chúa rằng: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà ấy phải chết sao?” Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ, và kêu cầu Đức Chúa rằng: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa trẻ này lại trở về với nó!” Đức Chúa nghe tiếng ông Êlia kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống. Ông Êlia liền bồng đứa trẻ từ phòng trên xuống nhà dưới, trao cho mẹ nó, và nói: “Bà xem, con bà đang sống đây!” Bà nói với ông Êlia: “Vâng, bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Đức Chúa do miệng ông nói ra là đúng.”
2) Êlidê làm cho một em nhỏ sống lại
Một hôm, ông Êlidê đi qua Sunêm. Ở đó có một phụ nữ giàu sang. Bà ta giữ ông lại dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào dùng bữa. Bà ấy nói với chồng: “Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó.” Một hôm, ông đến nơi ấy, ông lui vào phòng trên lầu và nghỉ ở đó. Ông nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông: “Đi gọi bà Su-nêm.” Nó đi gọi bà và bà đến trước mặt nó. Ông Êlidê bảo nó: “Hãy nói với bà ấy: Bà đã quá lo lắng bận rộn vì chúng tôi. Chúng tôi biết phải làm gì cho bà đây? Có cần chúng tôi phải nói một lời với đức vua hay với tướng chỉ huy quân đội cho bà không?” Bà trả lời: “Tôi sống yên hàn giữa dân tôi.” Ông Êlidê nói với tiểu đồng: “Nên làm gì cho bà ấy?” Giê-kha-di đáp: “Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà chồng thì đã già.” Ông Êlidê bảo: “Đi gọi bà ấy.” Nó đi gọi bà, và bà ấy đến đứng ngoài cửa. Ông Êlidê nói: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai.” Bà mới nói: “Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ ngài!” Quả nhiên, bà ấy có thai, và năm sau, vào thời kỳ, vào độ mà ông Êlidê đã nói, thì bà sinh con trai. Đứa trẻ lớn lên. Một ngày kia, khi đi kiếm cha nó ở giữa những người thợ gặt, nó nói với cha: “Ôi, cái đầu con! Cái đầu con!” Người cha bảo anh đầy tớ: “Bồng nó về cho mẹ nó.” Người tớ trai bồng nó, đem về cho bà mẹ. Đứa trẻ ngồi trên đầu gối bà đến trưa, rồi nó chết. Bà đem nó lên đặt trên giường dành cho người của Thiên Chúa, đóng cửa lại, để nó ở trong rồi đi ra. Bà đi gọi chồng và nói: “Xin ông sai đến tôi một anh đầy tớ và một con lừa cái. Tôi chạy đến người của Thiên Chúa, rồi sẽ về.” Người chồng bảo: “Tại sao bà lại đi gặp ngài ngày hôm nay? Không phải là ngày đầu tháng, cũng chẳng phải là ngày sa-bát.” Nhưng bà trả lời: “Ông cứ yên tâm!” Rồi bà cho thắng lừa và nói với anh đầy tớ: “Hãy đưa tôi đi và lên đường! Chỉ dừng xe lại khi tôi bảo.” Bà lên đường và đi đến với người của Thiên Chúa ở núi Các-men. Vừa thấy bà đằng xa, người của Thiên Chúa nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông: “Kìa bà Su-nêm. Con hãy chạy ra đón và nói với bà ấy: “Bà có được mạnh khoẻ không? Ông nhà có được mạnh khoẻ không? Cậu bé có được mạnh khoẻ không?” Bà trả lời: “Vâng, mạnh khoẻ cả.” Khi đến gần người của Thiên Chúa ở trên núi, bà ôm lấy chân ông. Giê-kha-di tiến tới, đẩy bà ra, nhưng người của Thiên Chúa bảo: “Để yên cho bà ấy, vì tâm hồn bà đang phải cay đắng. Đức Chúa đã giấu ta điều ấy, Người không cho ta biết.” Khi ấy, bà nói: “Nào tôi có xin ngài cho tôi được đứa con đâu? Tôi đã chẳng nói: “Xin đừng đánh lừa tôi, đó sao?” Ông Êlidê bảo Giê-kha-di: “Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại. Ngươi sẽ đặt gậy của ta trên mặt cậu bé.” Mẹ cậu bé nói: “Có Đức Chúa hằng sống và có ngài đang sống đây, tôi xin thề sẽ không rời xa ngài.” Ông trỗi dậy và đi theo bà. Giê-kha-di đã đi trước hai người và đặt gậy trên mặt cậu bé; nhưng không nghe thấy tiếng, không thấy động đậy. Anh ta quay lại đón ông Êlidê và trình ông: “Cậu bé đã không thức dậy.” Khi ông Êlidê tới nhà thì cậu bé đã chết, nằm trên giường của ông. Ông đi vào chỗ cậu bé, đóng cửa lại, chỉ có hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với Đức Chúa. Ông lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt ông trên mắt nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó. Ông cứ nằm trên đứa trẻ, da thịt nó nóng lên. Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm trên nó; cậu bé hắt hơi đến bảy lần, và mở mắt ra. Ông Êlidê gọi Giê-kha-di và bảo: “Đi gọi bà Su-nêm.” Nó đi gọi bà; bà đến với ông, ông nói: “Bà hãy đem con đi!”
Giáo Huấn của Công Đồng Vatican II
Chúa Giêsu Kitô là người được Thiên Chúa sai đến: “Sau khi phán dạy nhiều lần, nhiều cách qua các Tiên Tri, “nay là thời cuối cùng, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua Chúa Con” (Dth 1,1-2). Thực vậy, Ngài đã sai Con Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng sáng soi mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ nghe những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa (x. Gio 1,1-18). Bởi vậy, Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể “là người đã được sai đến với loài người”, “nói tiếng nói của Thiên Chúa” (Gio 3,34) và hoàn thành công trình cứu rỗi của Chúa Cha đã giao phó cho Ngài thực hiện (x. Gio 5,36; 17,4). Vì thế, chính Ngài, Đấng mà ai thấy, tức là thấy Chúa Cha (x. Gio 14,9), đã đến bổ túc và hoàn tất mạc khải, bằng tất cả sự hiện diện và tỏ mình qua lời nói cũng như việc làm, dấu chỉ và phép lạ, nhất là qua cái chết và sự sống lại vinh quang từ kẻ chết, sau cùng bằng việc phái Thần Chân Lý đến, bằng chứng tích của một Thiên Chúa, Ngài xác nhận Thiên Chúa hằng ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết, rồi phục sinh chúng ta để được sống đời đời.
Vậy nhiệm cuộc Kitô giáo, vì là giao ước mới và vĩnh viễn, sẽ không bao giờ mai một. Chúng ta không phải chờ đợi một mạc khải công cộng nào khác nữa trước khi Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta hiện đến trong vinh quang (x. 1Tm 6,14; Tit 2,13).
(Hiến Chế Tín Lý Về Mạc Khải Của Thiên Chúa – số 4)
- Gợi ý suy niệm của Lm. Carôlô
(Trích dẫn từ ‘Hạt Giống Nảy Mầm’)
- Hạt giống…
Chúa Giêsu cứu sống con trai bà góa thành Naim:
– Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp. Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương.
– Chúa chạnh lòng trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non.
– Cứu sống đưa con trai xong, Chúa còn tế nhị trao nó lại cho mẹ nó.
B…. nẩy mầm.
- Trái tim con người vốn giàu tình thương. Nhưng vì nhiều lý do, trái tim có thể bị chai lì đi, không còn xúc động gì trước cảnh khổ của người khác.
– Thấy người nghèo thường quá, tôi không còn cảm được cái khổ của người nghèo.
– Thấy người bệnh thường quá, tôi không còn cảm được nỗi đau của họ.
– Thấy người tội lỗi quen quá, tôi dửng dưng nhìn người ta ngày càng chìm sâu trong tội…
Lạy Chúa, xin đổi trái tim bằng đá của con bằng trái tim bằng thịt.
- Xin Chúa cũng dạy con biết tế nhị: thấy được nhu cầu người khác trước khi họ xin con giúp, và giúp họ cách tế nhị nhẹ nhàng như hôm đó Chúa đã trao đứa con lại cho người mẹ.
- “Tiến lại gần, Ngài chạm đến quan tài”: việc này bị luật coi là ô uế. Nhưng để an ủi gia đình người chết, và để “tiến lại gần” (ý muốn được gần gũi với người đau khổ), Chúa không ngại gì cả. Yêu thương giúp đỡ đòi phải can đảm và hy sinh.
- Chuyện người mẹ Naim đau khổ được Chúa cứu giúp khiến tôi nghĩ đến cảnh khổ của bản thân mình. Bà không biết người đàn ông đứng ở cổng thành hôm ấy là Chúa Giêsu, Đấng có quyền năng cứu sống. Bà không ngõ lời xin Chúa. Nhưng Chúa chạnh lòng thương, tự động Chúa lại gần và Chúa kéo bà ra khỏi cơn đau khổ.
Chúa lúc nào cũng ở gần tôi. Khi tôi phải khổ, Chúa cũng chạnh lòng và Ngài sẵn sàng cứu giúp. Tôi không bao giờ cô đơn.
- “Chúa Giêsu lại gần sờ vào quan tài và nói: ‘Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy’. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói” (Lc 7,14-15)
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ… Chúa nhựt nào Giang cũng đi câu cá. Mai nằm lì trên giường. Tin và Sơn phóng xe đi chơi. Bích thì gọi điện thoại cho bạn. Này có ai gọi mình thì phải?
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ. Bài giảng dài lê thê và khó hiểu quá. Xem phim hoạt hình trên Tivi, hay mở máy hát nghe nhạc, hoặc gọi điện thoại đấu láo với bạn bè còn thích hơn. Này rõ ràng có ai gọi mình mà!
Lạy Chúa, con chỉ nghe toàn những tiếng gọi của nhu cầu bản thân. Còn tiếng gọi của Chúa sao mơ màng quá, khó nghe quá. Chúa đã gọi người thanh niên chỗi dậy từ cõi chết, xin Ngài cũng hãy gọi con quay lại từ những đam mê bất chính của con. (Hosanna)
THÁNH LỄ
- DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Cuộc đời thật lắm đau thương, và đau thương nhất chính là chứng kiến cái chết của những người thân.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện một người mẹ khóc thương đứa con duy nhất của mình vừa chết. Nhưng đáng để ý hơn là chính Chúa Giêsu đã cùng rơi lệ với bà bà đã cứu sống con bà.
Qua Chúa Giêsu, chúng ta được biết Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy đến gần Ngài và xin Ngài thương xót chúng ta.
- GỢI Ý SÁM HỐI
– Xin Chúa thương xót chúng con vì chúng con rất tội lỗi.
– Xin Chúa thương xót chúng con vì cuộc đời chúng con gặp rất nhiều gian truân.
– Xin Chúa thương xót chúng con vì chúng con chưa có được một tấm lòng xó thương bao la như Chúa.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc I (1 V 17,17-24)
Câu chuyện này có nhiều nét giống với câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay:
– Một đứa con trai độc nhất bị chết
– Bà mẹ là một góa phụ và là một người ngoại
– Đứa con ấy được ngôn sứ Êlia và Chúa Giêsu làm cho sống lại
Khi Thánh Luca viết đoạn Tin Mừng hôm nay, ngài muốn cho thấy Chúa Giêsu là một Êlia mới.
- Đáp ca (Tv 29)
Tv này ca tụng lòng thương xót của Thiên Chúa:
– “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài vì đã thương cứu vớt”
– “Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời”.
– “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con”.
- Tin Mừng (Lc 7,11-17)
Chúa Giêsu cứu sống con trai bà góa thành Naim:
– Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp. Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương.
– Chúa chạnh lòng trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non.
– Cứu sống đưa con trai xong, Chúa còn tế nhị trao nó lại cho mẹ nó.
- Bài đọc II (Gl 1,11-19) (Chủ đề phụ)
Trong trích đoạn tuần trước, Phaolô trách tín hữu Galát đã theo “một Tin Mừng khác”, tức là chưa đủ an tâm khi sống theo Tin Mừng mà Phaolô rao giảng, lại còn giữ thêm một số luật lệ do thái giáo. Khi làm như thế, họ chứng tỏ chưa hiểu rằng người ta được cứu độ nhờ đức tin chứ không phải nhờ tuân giữ lề luật.
Trong trích đoạn hôm nay, để thuyết phục tín hữu Galát vững tin vào Tin Mừng của mình rao giảng, Phaolô chứng minh cho họ biết Tin Mừng ấy Ngài đã lãnh nhận trực tiếp từ Thiên Chúa.
- GỢI Ý GIẢNG
* 1. Khi một người thân chết đi
Đám tang là một cảnh buồn. Đám tang mà Chúa Giêsu chứng kiến còn đặc biệt buồn vì đó là đám tang của đứa con trai duy nhất của một bà góa. Mất con hẳn là thánh giá nặng nhất mà cha mẹ phải gánh chịu.
Người ta nói rằng khi một người già chết đi thì người ấy mang đi quá khứ của chúng ta ; còn khi một người trẻ chết thì người ấy mang đi chính tương lai của chúng ta. Sự mất mát này to lớn đến nỗi có thể khiến cho người ở lại không còn tha thiết sống nữa.
Thánh Kinh đã kể một câu chuyện cảm động về nỗi đau của Đavít khi đứa con nhỏ của ông bệnh nặng (2 Sm 12,16-25): Đavít rất buồn rầu và thiết tha cầu xin Chúa cho đứa nhỏ ấy khỏi bệnh. Ông còn ăn chay và đêm thì nằm ngủ dưới sàn nhà, mặc áo nhậm. Các cận thần nài nỉ ông lên giường nhưng ông không chịu. Đến ngày thứ bảy thì đứa bé chết. Các cận thần rất lo lắng, nói với nhau “Lúc đứa bé còn sống, ngài còn không nghe chúng ta. Huống chi bây giờ nó đã chết rồi”. Đavít nghe người ta xì xầm thì đoán được sự việc. Ông hỏi “Có phải con ta đã chết rồi chăng ?”. Họ đáp “Thưa vâng”. Đavít liền chổi dậy, tắm rửa, mặc quần áo bình thường, vào đền thờ phủ phục trước nhan Chúa, rồi trở ra ăn uống như thường. Mọi người ngạc nhiên hỏi: “Tại sao khi đứa nhỏ chưa chết thì Ngài khóc than và nằm dưới sàn, còn khi nó chết rồi thì Ngài chổi dậy và ăn uống ?” Đavít trả lời: “Khi đứa bé còn sống, ta làm tất cả để cứu mạng sống nó. Nay nó chết rồi, nó không thể trở về với Ta nữa. Nhưng Ta có thể đến với nó”.
Đavít đã nêu gương biết chấp nhận một tình huống không thể nào thay đổi được. Tuy chúng ta không thể nào quên người đã chết, nhưng cuộc sống là quý giá nên chúng ta phải tiếp tục sống. Chúng ta khóc vì một sự sống đã mất đi, nhưng nếu chúng ta cứ than khóc mãi thì sẽ có đến hai sự sống phải mất.
Đứng trước một người thân chết đi, chúng ta có thể cảm thấy như Thiên Chúa vắng mặt. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể cảm nhận điều ngược lại: sự chết có thể kéo ta đến gần Chúa hơn. Tại sao ? Vì chúng ta nhận thức rằng con người hoàn toàn bất lực trước cái chết, chỉ có Chúa mới giúp chúng ta được thôi. Từ đó chúng ta phó mình trong lòng thương xót Chúa. Cũng như Chúa đã viếng thăm bà góa thành Naim, Ngài cũng đến viếng thăm chúng ta cùng với những ơn ban nâng đỡ, hy vọng và bình an.
Thực ra người chết không chết mà chỉ đổi thế giới sống. Người thân quá cố của chúng ta không xa cách chúng ta. Họ vẫn yêu thương chúng ta và còn có thể giúp đỡ chúng ta nữa. Tuy người quá cố không trở lại với chúng ta, nhưng chúng ta có thể đến với họ. Họ đang chờ chúng ta. Chúng ta và họ sẽ gặp lại nhau trong tình thương của Chúa. (FM)
* 2. Sự sống hay nỗi chết
Một vị ẩn sĩ nọ, ngày kia lạc vào một hang động. Tại đây ông đã khám phá ra một kho tàng với không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Nhưng ông đã vội vã ra khỏi hang, vừa chạy vừa la thất thanh: “Tôi đã thấy thần chết”.
Tình cờ ba tên cướp đi ngang qua đó, nghe tiếng kêu của vị ẩn sĩ, họ dừng lại hỏi chuyện.
Muốn chứng tỏ mình là những người không biết sợ là gì, ba tên cướp yêu cầu đưa họ đến gặp thần chết. Vị ẩn sĩ dẫn họ vào hang động và chỉ vào kho tàng. Mắt họ sáng lên và lập tức ba tên cướp tống cổ vị tu hành ra khỏi hang.
Nhưng kho tàng quá lớn, họ không thể mang ra tất cả trong một ngày. Sau một hồi bàn cãi ba tên cướp đồng ý để một người ra phố mua sắm lương thực. Hai người còn lại ngồi đó canh giữ kho báu.
Người được sai đi chợ nghĩ thầm trong bụng: “Ta sẽ ăn uống no nê, sau đó bỏ thuốc độc vào thức ăn. Hai tên khốn nạn sẽ chết và tạ sẽ chiếm trọn kho tàng”.
Hai tên ngồi canh giữ kho báu cũng bàn với nhau: “Chúng ta sẽ giết hắn. Và như thế phần của mỗi người chúng ta sẽ nhiều hơn”.
Khi kẻ mang lương thực về đến hang động: họ liền giết hắn và nuốt trọn thức ăn có thuốc độc. Thế là cả ba đã cùng nhau đi gặp thần chết như lời vị ẩn sĩ tiên báo.
*
Vì tham lam của cải mà ba sinh mạng đã bị thần chết cướp đi trong nháy mắt. Vì chạnh lòng thương xót người quả phụ cô độc, hôm nay Chúa Giêsu đã giật lại khỏi tay thần chết con trai duy nhất của bà goá thành Naim.
Chúa Giêsu đã can thiệp mau lẹ, xử lý nhanh gọn, ra tay tức thời, không chờ đợi người ta cầu xin, nài nỉ. Người nhìn rõ nỗi buồn mất con, Người hiểu thấu nỗi cô đơn của bà goá không nơi nương tựa, Người liền an ủi: “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Rồi Người sờ vào quan tài và nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh. Hãy chỗi dậy!” (Lc 7,14).
Thiên Chúa yêu thương con người vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Vì bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, nên Người muốn giải thoát con người khỏi nỗi cô đơn buồn phiền, khỏi thất vọng đắng cay, khỏi đau thương tuyệt vọng. Và nỗi đau thương tuyệt vọng lớn nhất của con người là sự chết, thì Người cũng sẵn lòng giải thoát con người khỏi chết.
Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại ở đó: Người còn muốn đi xa hơn nữa trong tình yêu: Người muốn giải thoát con người khỏi cái chết muôn đời. Con trai bà goá thành Naim sống lại để rồi lại phải chết, nhưng những ai được Người yêu thương giải thoát thì sẽ vĩnh viễn sống lại miên trường. Đó mới là sứ mạng của Người khi xuống trần gian.
Sự kiện con trai bà goá thành Naim được Người cho sống lại chính là hình bóng báo trước biến cố vô cùng lớn lao hơn. Biến cố đó là cốt lõi của đạo, là trung tâm điểm của Kitô giáo: Đó chính là nhờ sự chết và sống lại của Chúa Giêsu mà tất cả chúng ta được giải thoát khỏi cái chết muôn đời.
Thiên Chúa yêu thương con người, Người muốn giải thoát con người khỏi lưỡi hái của tử thần, nhưng con người vẫn có tự do để chọn sự sống hay nỗi chết. Ba tên cướp vì tham lam của cải đã chọn cho mình hai cái chết, cái chết của thể xác và cái chết của linh hồn. Trong cái hang tử thần ấy không chỉ có những con người tham của mà còn vô số những kẻ tham danh vọng, địa vị, chức quyền ; không chỉ có những người mê của mà còn hằng hà những kẻ mê hút sách, rượu chè, cờ bạc, trai gái.
Cái chết phần xác thì ai cũng sẽ trải qua một lần trong đời, nhưng cái chết phần hồn thì chỉ có những con người can đảm, bền chí và trung thành với Đức Kitô và giới luật của Người mới có thể vượt qua để sống miên viễn với Người trên nơi vĩnh phúc.
*
Lạy Chúa, chúng con ước mong được chết để cùng sống lại vinh quang với Người. Nhưng trước khi chết xin cho chúng con biết dứt lòng từ bỏ những gì là xấu xa của ma quỉ, thế gian và xác thịt để chúng con được tự do thong đong về với Chúa là Cha đầy yêu thương. Amen. (TP)
* 3. Chuyện minh họa
Một Rabbi do thái tên là Nahman vừa có đứa con trai bị chết. Các rabbi bạn ông đến an ủi nhưng chẳng thể nào làm cho ông hết đau lòng. Cuối cùng Rabbi Moses kể cho ông nghe câu chuyện sau đây:
Một ông vua kia giao cho một người đầy tớ giữ một báu vật. Anh này ngày nào cũng than: “Khốn thân tôi! Biết tới chừng nào nhà vua mới lấy lại báu vật này để tôi không còn phải gánh vác trách nhiệm to lớn này nữa”.
Rồi Rabbi Moses áp dụng: Bạn cũng đã được giao trách nhiệm gìn giữ một báu vật là đứa con rất tốt lành của bạn. Nay nó đã được cất khỏi thế gian này mà không bị sự dữ nào làm hoen ố. Vậy bạn phải vui mừng vì đã chu toàn trách nhiệm mà Vua các vua đã giao cho ông chứ!
Câu chuyện và lời khuyên của Rabbi Moses đã làm vơi đi nỗi buồn ủa Rabbi Nahman. (FM)
- LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu chia sẻ mọi đau khổ, bất hạnh với nhân loại. Người đã lấy lòng từ bi nhân hậu mà lau sạch nước mắt những ai sầu khổ. Chúng ta cùng cảm tạ Người và tha thiết nguyện xin:
- Hội thánh luôn quan tâm đến những người nghèo khổ / những ai đang gặp hoạn nạn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn bênh vực những người cô thế cô thân / và rộng rãi giúp đỡ những ai đói rách bần cùng.
- Cái chết không loại trừ bất cứ một ai / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người biết chuẩn bị cho cuộc sống mai sau / bằng cách làm thật nhiều việc lành phúc đức trong cuộc sống hôm nay.
- Những người bất hạnh vẫn còn đầy dẫy trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn biết an ủi và trợ giúp những ai đang lâm cảnh gian truân khốn khó.
- Vui với người vui / khóc cùng người khóc / là thái độ phải có của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn cố gắng thực hiện lời dạy của thánh Phaolô tông đồ.
Chủ tế: Lạy Chúa, Đức Kitô Con Chúa đã lấy tình thương mà băng bó mọi vết thương tâm hồn cho những ai đang gặp đau khổ. Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
- TRONG THÁNH LỄ
– Trước Kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài muốn chúng ta sống hạnh phúc chẳng những ở đời này mà còn mãi mãi ở đời sau. Vậy chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời cầu nguyện đầy tin tưởng của chúng ta.
VII. GIẢI TÁN
Với niềm tin tưởng trọn vẹn vào lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta hãy ra về bình an.
- Ý nghĩa của cuộc sống
Trong cuộc sống công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã chứng kiến nhiều cái chết cũng như tham dự nhiều đám tang. Nhưng việc Ngài làm cho kẻ chết sống lại được Tin Mừng ghi lại không quá ba lần: một em bé gái con của vị kỳ mục trong dân; Lazarô em trai của Marta và Maria; người thanh niên con của bà góa thành Naim. Cả ba trường hợp chỉ là hồi sinh, chứ không phải là phục sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của những người này chỉ kéo dài được thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng trở về với bụi đất.
Chúa Giêsu đã không đến để làm cho con người được trường sinh bất tử ở cõi đời này, đúng hơn, Ngài đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cửu thì điều kiện tiên quyết là con người phải kinh qua cái chết. Chết vốn là thành phần của cuộc sống và là một trong những chân lý nền tảng nhất mà Chúa Giêsu đến nhắc nhở cho con người. Mang lấy thân phận con người là chấp nhận đi vào cái chết. Chính Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi số phận ấy. Thánh Phaolô đã nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với cái chết: “Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá”. Ðón nhận cái chết và đi vào cõi chết như thế nào để cuộc sống có ý nghĩa, đó là điều Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho con người khi đi vào cái chết.
Một trong những cái chết vô nghĩa và do đó cũng chối bỏ ý nghĩa cuộc sống, đó là tự tước đoạt sự sống của mình. Những cái chết như thế là lời tự thú rằng cuộc sống không có, cuộc sống không còn ý nghĩa và như vậy không còn đáng sống. Jean Paul Sartre, người phát ngôn của cả thế hệ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, đã viết trong tác phẩm “Buồn Nôn”: “Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ngồi đây ăn uống là để bảo tồn sự quí giá của chúng ta, nhưng kỳ thực, không có gì, tuyệt đối không có lý do gì để sống cả”.
Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết. Ðón nhận cái chết, Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống sung mãn, Ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa và đáng sống. Ðón nhận cái chết như ngõ đón vào vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy điểm đến và vinh quang đích thực, đó là sự sống vĩnh cửu. Ngài đã vâng phục cho đến chết. Vâng phục của Ngài là vâng phục trong tin tưởng, phó thác, trong khiêm tốn và yêu thương; đó là điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và làm cho cuộc sống trở thành đáng sống.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta niềm tin, can đảm và vui tươi để biết đón nhận và sống từng giây phút hiện tại một cách sung mãn, để tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
- Tấm lòng để yêu – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói: “Sống trên đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì em có biết không? Để gió cuốn đi…”, và cũng chính ông đã ngụ ý rằng, chỉ với một tấm lòng nhỏ nhoi ấy thôi, mà con người vượt rất xa những loài vật khác. Tấm lòng mà Họ Trịnh muốn nói đến chính là sự thương yêu, sự quan tâm, sự chia sẻ để cho gió mang đến cho mọi người. Con người sống, cần có tấm lòng không phải chỉ để đó cho bản thân, hay cất kỹ cho riêng mình nhưng để trở thành làn gió mang lại sự dịu mát cho tha nhân. Chính trong làn gió mà tấm lòng con người được đến với muôn người, được ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để sống có ích cho đời và cho tha nhân.
Thế nhưng, tấm lòng đó hôm nay đang chôn chặt trong sự ích kỷ của lòng người khiến thế giới thiếu đi tình người, tình liên đới, tình hiệp nhất sẻ chia. Tấm lòng của con người hôm nay không để cho gió cuốn đi mà đang khư khư giữ lại riêng cho mình, đang cất dấu cho bản thân.
Mấy ngày qua, tấm ảnh một tên trộm xe ở gần trường Đại học Hải Phòng bị trói ngược hai tay vô một gốc cây, người đầy máu… Một đám đông dừng xe, vây quanh kẻ trộm với những đôi mắt tò mò, và có cả những người đi đường chưa rõ đầu đuôi câu chuyện cũng xúm vô hùa đánh kẻ trộm nhưng tuyệt nhiên không có một ai can ngăn. Đành rằng trộm cắp là điều xấu nhưng hùa nhau để đánh một người vẫn là điều không đáng có trong xã hội chúng ta.
Cũng trong mấy ngày gần đây, dư luận lại xôn xao về clip đánh ghen ở Bình Dương. Hình ảnh một phụ nữ và đứa con trai lột quần áo tình địch giữa đường được tung lên mạng. Bên cạnh chuyện ai nợ tình ai và mối tình tay ba của gia đình này, còn một vấn đề khiến nhiều người đặt câu hỏi: “Đám đông ở đâu?”.
Trong clip này, hiện diện rất rõ đám đông vây quanh. Khi người phụ nữ đang ra lệnh cho cậu con trai “Lột quần nó! Lột quần nó!” thì một người trong số đám đông đứng đó quay lại sự việc bằng điện thoại di động. Vài người đứng xem. “Thôi đừng đánh nó nữa!” – đó là một trong những lời can ngăn nhẹ nhàng nhưng cũng hiếm hoi.
Có ai đó nói rằng: tình cảm như những hạt mưa, hạt mưa càng to, càng nặng thì càng giập tắt được những ngọn lửa của lòng thù hận, ghen ghét, bi ai và nó cũng làm dịu mát những mảnh đời bất hạnh lầm than khi được cảm thông, nâng đỡ, sẻ chia…
Thiên Chúa tạo dựng con người có một tấm lòng. Một tấm lòng biết yêu thương như Chúa. Một tấm lòng yêu thương là họa ảnh của tình yêu Thiên Chúa giữa nhân trần. Con người phải biết yêu thương là một định luật tất yếu của đời người. Yêu thương là căn tính của con người. Thế nên, khi con người không yêu thương thì con người đang đánh mất căn tính của mình và làm mất đi vẻ đẹp cao quý nơi phẩm giá loài người của mình.
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài luôn bày tỏ cảm xúc của mình trước những bất hạnh của tha nhân. Ngài chạnh lòng thương đám đông bơ vơ đang đói lả. Ngài nhìn thương hại người thanh niên giàu có. Ngài khóc thương cho bạn mình là Lagiarô đã chết. Hôm nay, Ngài không khỏi bùi ngùi trước sự đau đớn của người mẹ mất con. Ôi, còn cái đau đớn nào hơn cái đau đớn mà cha ông ta nói rằng: “Lá vàng còn ở trên cây – Lá xanh rụng xuống trời chăng hỡi trời?” Chúa đã đồng cảm nỗi đau của người mẹ. Chúa đứng lại an ủi người mẹ. Nhưng xem ra lời an ủi chẳng nghĩa lý gì trước cảnh tang thương. Người mẹ vẫn đau khổ vì mất con. Chúa đã làm một phép lạ không chỉ là bày tỏ quyền năng mà hơn hết chính là bày tỏ một tấm lòng thương xót người góa phụ. Ngài đã gọi người thanh niên trỗi dậy trước sự ngỡ ngàng của mọi người và trong niềm vui khôn tả của người mẹ nhận lại con.
Con người là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người cũng có một trái tim vốn giàu tình thương. Nhưng xem ra, vì nhiều lý do, trái tim có thể bị chai lì đi, không còn cảm xúc trước những khổ đau của tha nhân.
– Có thể vì thấy người nghèo thường quá, chúng ta không còn cảm xúc trước cái khổ của người nghèo.
– Có thể vi thấy người bệnh thường quá, chúng ta không còn cảm được nỗi đau của họ.
– Và có thể vì thấy người tội lỗi quen quá, chúng ta dửng dưng nhìn người ta ngày càng chìm sâu trong tội…
Ước gì chúng ta luôn có cái nhìn đầy cảm xúc của Chúa để mở rộng lòng trước những bất hạnh của tha nhân. Xin cho chúng ta luôn biết mở toang tấm lòng của mình để gió cuốn ta đi đến với mọi hoàn cảnh khổ đau, với những mảnh đời bất hạnh hầu xoa dịu những thương đau cho anh em như Chúa đã sống vì yêu thương nhân trần chúng ta. Amen.
- Con trai bà góa Nain sống lại
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Sau bài diễn từ “trong đồng bằng”, Đức Giêsu đi vào Caphácnaum. Tại đây Người chữa lành một người nô lệ sắp chết (7,1-10). Do đó, ta có thể thấy có một sự tiến triển từ truyện ấy đến truyện đọc hôm nay: ở 7,1-10, ta ghi nhận là tại Caphácnaum, Đức Giêsu chữa lành một người nô lệ “gần chết”; ở 7,11-17, tại Nain, Đức Giêsu cho một thanh niên, con một bà góa, đã chết, được “trỗi dậy”.
Hai dấu chỉ này lại không tách biệt với những gì đến sau: trong câu trả lời cho những người được Gioan cử đến, Đức Giêsu gửi họ trở lại với những phép lạ cho người chết sống lại (7,22). Như vậy, chức năng của hai truyện Caphácnaum và Nain đã rõ: tác giả dùng để chuẩn bị cho câu hỏi về chân tính của Đức Giêsu và câu trả lời của chính Người. Nhờ hai hành vi quyền lực này cũng như những cuộc chữa lành khác (x. 7,21), Đức Giêsu có thể nói: anh em cứ nhìn xem những gì tôi đã làm! Nhưng nếu người ta có thể nhận biết Người là bởi vì các phép lạ đáp lại một sự chờ đợi được gợi lên bởi một lời hứa: trong câu trả lời, Đức Giêsu nhắc lại bản văn Isaia đã đọc tại hội đường Nadarét, cũng như những bản văn khác (x. Is 26,19; 29,18; 35,5-6; 61,1), để nói lại lần nữa rằng trong tất cả những chuyện này, phải thấy là các lời ngôn sứ được ứng nghiệm. Đàng khác, nếu rảo qua tất cả các xen nằm trong Lc 7,1–7,49, ta thấy rõ toàn khối có tính thống nhất: từ đầu cho đến cuối chương 7 này, đề tài là tư cách ngôn sứ của Đức Giêsu và những dấu chỉ cho phép nhận ra Người. Để thấy được diểm này, ta có thể so sánh Lc 7,1-10 // 7,11-17; 7,18-23 // 7,24-28; 7,29-35 // 7,36-49.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Giới thiệu các nhân vật (7,11-12);
2) Hành động của Đức Giêsu (7,13-15);
3) Phản ứng của dân chúng: ca ngợi và phổ biến (7,16-17).
3.- Vài điểm chú giải
– Nain (11): Một thành ở về phía nam Galilê, chỉ được nhắc đến ở đây trong Kinh Thánh. Thành ở không xa Enđo về phía tây bắc của Nêbi Đahi, một quả đồi ở giữa Ghinbôa và núi Tabo, cách Nadarét về phía tây nam vài dặm.
– Bà đừng khóc nữa (13): Dạng mệnh lệnh hiện tại có nghĩa là “Bà đừng tiếp tục khóc nữa!”. Đức Giêsu không ngăn cản nỗi đau của một người mẹ, nhưng khuyên bà như thế là nhắm đến hành vi Người sắp làm.
– ngôn sứ (16): Hẳn là sự kiện này nhắc nhớ đến sự việc ngôn sứ Êlia cho người con một của bà góa Sarépta sống lại. Có thể so sánh 1 V 17,20 // Lc 7,12; 1 V 17,17.20 // Lc 7,12; 1 V 17,22 // Lc 7,15; 1 V 17,23 // Lc 7,15; 1 V 17,24 // Lc 7,16. Sau này chính tác giả Lc cho thấy đám đông coi Đức Giêsu là Êlia của thời cuối cùng (9,18).
– Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (16): Câu này nhắc lại minh nhiên câu mở đầu và câu kết của bài Benedictus (1,68.78). Có lẽ tác giả thấy trong cả hai trường hợp, có việc ban tặng một người con: cho Dacaria và Êlisabét đã lâu vẫn xin có được một con trai, và cho bà góa vừa mất đứa con một.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu các nhân vật (11-12)
Bài tường thuật bắt đầu với việc giới thiệu các nhân vật qua hai bước (= hai thì). Câu 11 cho thấy Đức Giêsu đang tiến về một thành gọi là Nain, có các môn đệ và một đám đông cùng đi với Người. Còn c. 12 thì kể rằng khi Đức Giêsu đến cửa thành thì gặp một người chết là con trai một, được đưa đi chôn, mẹ của anh là một bà góa, và một đám đông đáng kể của thành đi với bà.
Chúng ta ghi nhận sự song đối: có hai đám đông, nhưng đi theo hai hướng đối ngược. Đây là hai nhóm người không có gì chung cả: những người thuộc nhóm thứ nhất đi theo một người có uy quyền, còn những người thuộc nhóm thứ hai đi theo một người chết.
* Hành động của Đức Giêsu (13-15)
Chúng ta không biết gì về tình cảm của cả hai nhóm. Nếu tác giả không ghi lại các tình cảm của những người đi theo người chết cũng như phản ứng của các môn đệ nhằm lưu ý Đức Giêsu về tình trạng bất hạnh của bà góa, thì không phải là vì ngài quên, nhưng ngài muốn nêu bật kết quả: phần giới thiệu ngắn gọn và hoàn toàn khách quan, bề ngoài, về các nhân vật, nhằm giúp tập trung chú ý vào lòng thương cảm của Đức Giêsu: Người là chủ ngữ của tất cả các động từ trong cc. 1-15: thấy, chạnh lòng thương/đầy lòng trắc ẩn (splanchnizomai: ruột gan quặn thắt), nói (với bà góa), lại gần, sờ, nói (với người chết), trao anh ta cho bà mẹ. Cũng như trong truyện Dakêu (Lc 19,1tt), chính sáng kiến của Đức Giêsu gây ra sự cố: nếu Đức Giêsu đi qua mà không dừng lại trước bà góa hoặc không ngỏ lời với ông trưởng nhóm thu thuế, thì hẳn là chẳng một ai trong những nhân vật ấy đã được nếm cảm niềm vui. Trong cả hai trường hợp, lời Đức Giêsu nói cho thấy Người hiểu thấu trái tim con người hoặc Người vén mở cho thấy dần dần căn tính của con người. Quả thật, chính Đức Giêsu nói lên ý thức về nỗi phiền muộn của người phụ nữ: “Bà đừng khóc nữa!” (c. 13), và về tuổi tác của người chết: một người thanh niên (c. 14)! Đặc biệt lời Người nói có sức mạnh vô song, bởi vì tức khắc điều Người truyền đã xảy ra: từ lời quyền năng của Người trào vọt ra mọi thay đổi tiếp đó. Ta ghi các lời nói tuôn trào từ lời của Đức Giêsu: “Đức Giêsu nói: Hãy trỗi dậy! Người chết liền … bắt đầu nói … Mọi người đều nói: Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện … Lời này (logos) được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê”. Tác giả đã đưa chúng ta chuyển đi từ cái nhìn trên nhóm người đi đưa đám sang chú ý vào Đức Giêsu bằng cách gọi Người là “Chúa” (kyrios, c. 13). Ngài không nói trong tư cách là người tường thuật một sự kiện, một biến cố, nhưng trong tư cách tín hữu. Đối với tác giả, chính chúa tể của sự sống và sự chết đang ngỏ lời với bà góa. Có hai chi tiết khiến ta nhờ đến bài thánh ca Benedictus: Lòng trắc ẩn của Đức Giêsu (1,78: “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn”) và lời của dân chúng: “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (7,16; x. 1,68: “đã viếng thăm cứu chuộc dân Người”). Từ đó, có thể nói: khi Đức Giêsu cứu chữa vì lòng trắc ẩn, Thiên Chúa đã đến gặp dân Ngài. Chính dân Israel đã đón Thiên Chúa đến viếng thăm (7,17).
Cũng cần ghi nhận một điểm nữa. Vừa giới thiệu xong hai nhóm, tác giả ghi nhận một hành động của Đức Giêsu: “trông thấy bà, idôn autên” (c. 13a). Không phải người chết khiến Đức Giêsu phải động lòng thương, nhưng là người mẹ đang khóc. Chính do ghi nhận này của tác giả mà người đọc hiểu rằng bà đang yêu thương và đang đau khổ như chỉ một người mẹ mới có thể đau khổ, và chính nỗi đau đớn này khiến trái tim của Đức Giêsu không chịu nổi. Chuyện người chết bắt đầu nói cũng không quan trọng gì ở đây, vì điểm nhắm là người mẹ đau khổ như bản văn nối tiếp cho thấy: c. 13a, “Chúa chạnh lòng thương bà”; c. 15b, “Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ”. Chúng ta ghi nhận rằng chủ ngữ của động từ “chạnh lòng thương” là “Chúa” (trong phép lạ cho con gái ông Gia-ia sống lại, chủ ngữ luôn là “Đức Giêsu”: 8,40.41.45.46.50): dường như tác giả muốn nêu bật tư cách Mêsia của Đức Giêsu, hơn là chiến thắng của Người trên sự chết. Như vậy, việc cho người con trai của bà góa sống lại được coi như một trong các kỳ công của Đấng Mêsia, nhằm chứng thực cho sứ vụ của Đức Giêsu (x. Lc 7,19: Gioan sai các môn đệ đến hỏi “Chúa”). Tuy nhiên, cả hai lần từ “Chúa” xuất hiện đều thuộc về người kể truyện. Lý do: tác giả muốn giữ một khoảng cách so với tiếng nói của những người có mặt (các môn đệ và đám đông), vì họ đang tung hô Người là “một vị ngôn sứ vĩ đại” (7,16). Tác giả vừa duy trì ý kiến chung của mọi người coi Đức Giêsu là “ngôn sứ vĩ đại” (c. 17: “Lời này về Đức Giêsu…”), vừa đưa vào một sự hiểu biết mới mẻ và đúng đắn hơn về Đức Kitô.
Người phụ nữ trở thành mẹ vào lúc bà đón nhận người con trai từ tay Đức Giêsu, khi bà đón lấy làm con người thanh niên vừa nhận sự sống không phải từ bà nữa nhưng từ Đấng Tạo Hóa: từ cử chỉ của Đức Giêsu, cả bà lẫn chàng trai nhận được chân tính là mẹ và là con. Tác giả vẫn không muốn nói về các tình cảm của bà mẹ, chẳng hạn hy vọng trước khi phép lạ xảy ra và tri ân sau khi người con đã được trả lại vì ngài chỉ nhắm làm cho mọi người biết rằng mọi chuyện đều được Đức Giêsu biết và làm cho xảy ra.
* Phản ứng của dân chúng: ca ngợi và phổ biến (16-17)
Tuy không nói gì về các tâm tình của hai mẹ con, tác giả Lc không làm cho ta nghĩ họ là những con người vô ơn: bản văn nhấn mạnh rằng “mọi người” không ngoại lệ “tôn vinh Thiên Chúa” (c. 16), và cũng như ở Lc 19,7, tính từ “mọi / tất cả [người]” (pantes) có một ngoại diên tối đa bao hàm cả người phụ nữ và chàng trai.
Cho dù trong cc. 16-17, Đức Giêsu không nói cũng không hành động nữa, Người vẫn hiện diện, hoặc thậm chí hiện diện khắp nơi, bởi vì danh tiếng Người tràn lan ra đến tận biên cương xứ Paléttina. Lời Người nói cũng như việc Người làm nay biện minh cho việc dân chúng nhìn nhận Người là “ngôn sứ” như Êlia (1 V 17,17-24 LXX) của thời đại cuối cùng (x. Lc 9,18) và sự kiện danh tiếng Người được đồn thổi khắp nơi. Cuối cùng, Thiên Chúa cũng được ca ngợi là “đã viếng thăm dân Người”. Câu 16c này rõ ràng nhắc lại lời mở và kết của bài Benedictus (1,68.78). Việc Đức Giêsu đi ngang qua được coi như là việc Thiên Chúa viếng thăm nhằm cứu độ dân Ngài.
+ Kết luận
Trong bài tường thuật này, các hàng rào bị phá vỡ. Đức Giêsu chạm tới thi hài, ngược lại mọi luật lệ về trong sạch (x. Ds 19,11-16). Nhưng ở một độ sâu hơn nữa, Người triệt tiêu giới hạn giữa sự chết và sự sống, bằng cách làm cho chàng trai sống lại và ban lại niềm hy vọng cho ai đã hoàn toàn mất hy vọng. Thế rồi “lời” băng qua cổng thành và tràn lan khắp vùng. Ý nghĩa của phép lạ có tính phổ quát: có một Đấng có thể làm cho người chết sống lại. Việc triệt hạ các hàng rào mở ra một cửa sổ trên mầu nhiệm của Đấng, khi tỏ ra thương xót và biểu lộ ơn cứu độ cho dân Người, được nhìn nhận là vị ngôn sứ vĩ đại, đồng thời là Chúa tể của sự sống.
Bằng khả năng viết tài ba, tác giả Lc đã tiến hành bằng cách mô tả hai nhóm, rồi tập trung vào nhân vật chính là Đức Giêsu (phản ứng của Người, sáng kiến, lời năng động và các hậu quả), rồi ngay sau đó trở lại với nhóm đã được thống nhất (“mọi người”). Sự biến đổi không chỉ hệ tại việc đưa chàng trai trở về cõi sống, hay trong việc một người mẹ mất con nhận lại anh ta vẫn sống từ tay Chúa, nhưng còn trong sự kiện hai đám đông tách biệt nay hiệp nhất với nhau mà ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa.
Phần các môn đệ, nếu các ông đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia của Thiên Chúa, điều này có nghĩa là Đức Giêsu đã làm những dấu chỉ cho phép các ông nhận ra Người. Do đó, các môn đệ sẽ phải bước theo Thầy trên nẻo đường đưa tới cái chết và cuộc tôn vinh, hầu cho hành vi nhận biết được nên thật.
5.- Gợi ý suy niệm
- Điểm quan trọng của bản văn không phải là người chết hoặc cái chết, hoặc việc trở lại cõi sống, nhưng là sự kiện một người mẹ, đã là góa bụa, lại vừa mất đứa con một và Đức Giêsu không chịu để cho bà phải khóc lóc. Việc trở về cõi sống không phải là mục tiêu mà sáng kiến Đức Giêsu nhắm tới. Hành động của Đức Giêsu đã kết thúc với một nhận xét đẹp: “Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ” (c. 15). Chuyện người chết bắt đầu nói cũng không quan trọng gì ở đây, vì điểm nhắm là người mẹ đau khổ như bản văn nối tiếp cho thấy: c. 13a, “Chúa chạnh lòng thương bà”; c. 15b, “Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ”.
- Người góa phụ, như một “đứa con thinh lặng”, chẳng thốt lên một lời nào. Bà không cầu xin được giúp đỡ; tác giả không nói rằng bà góa ấy có lòng tin vào Đức Giêsu, hay bà đã đi theo Người, hoặc là bà đã nghe biết về Đức Giêsu và quyền năng của Người. Chẳng có yêu cầu trông mong nào đối với phép lạ ấy. Không, đây là một câu chuyện về sự khó khăn túng thiếu của con người. Thế nhưng, điều đó chưa phải là đã kết thúc, như người ta vẫn nói: “nhìn vậy chứ không phải vậy” (hoặc tất cả những chứng cứ chưa nói lên được điều gì). Cái chết không phải là kết thúc câu chuyện bà góa và của cả chúng ta nữa. Bởi lẽ, Đức Giêsu đã đến và trông thấy nhu cầu của con cái Chúa đang lặng thầm. Người cho đứa con trai của bà góa được sống lại, và hơn thế nữa, Người còn cho bà góa cũng được sống lại. Nỗi đau buồn hiện tại của bà đã được cất khỏi, bà lại có niềm hy vọng vào tương lai (Siciliano).
- Chúng ta có thể suy ngẫm về lời và cử chỉ của Đức Giêsu, một lời hết sức uy quyền và một cử chỉ hết sức khả ái. Người đã gọi người chết trở về cõi sống và trao anh ta cho bà mẹ. Trong tư cách là Đấng Tạo Hóa, Người đã ban cho anh sự sống rồi trao anh cho mẹ. Chính khi đó, người phụ nữ trở thành mẹ và chàng trai trở lại làm con.
- Sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng nhân loại chính là sự hiện diện của Thiên Chúa cứu độ. Sự hiện diện này không chỉ đưa lại sự an ủi, khích lệ, mà còn đưa lại sự sống, khôi phục sự sống và kiến tạo sự hiệp nhất. Chính những hiệu quả này giúp dân chúng nhận ra rằng Thiên Chúa đã đến viếng thăm họ nơi “vị ngôn sứ vĩ đại” này. Đấy hẳn cũng phải là điều các môn đệ của Đức Giêsu ở mọi thời phải chứng tỏ.
- Lời đáp của đám đông mang dấu ấn là nỗi sợ hãi và tâm tình tôn vinh Thiên Chúa. Đây là phản ứng tiêu biểu của con người khi đứng trước sự biểu lộ của thế giới siêu việt, của Thiên Chúa (x. Lc 1,12.65; 2,9; 5,26), nỗi sợ hãi có kèm theo việc tôn vinh Thiên Chúa (Lc 2,20; 5,26; 13,13; 17,15; 18,43; 23,47), dấu chứng tỏ có hiểu biết về Thiên Chúa và đáp lại bằng lời cầu nguyện với mạc khải của Thiên Chúa.
- Chú giải của Noel Quesson
Sau đó, Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Nain.
Ngôi làng này hiện nay vẫn còn, dưới phân núi Tabo, cách Nadarét mười kilômét. Đức Giêsu đi bộ đến đó có nhiều người đi theo Người, gồm cả đàn ông và đàn bà, họ khao khát lắng nghe lời Người và nhìn xem các phép lạ của Người.
Có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất và mẹ anh ta lại là một bà góa.
Luca, thánh sử của Đức Maria (ngài là người duy nhất cũng kể lại nhiều kỷ mềm về thời thơ ấu của Đức Giêsu) hẳn đã thu lượm các chi tiết này từ chính miệng của Đức Maria. Sự sống lại này được thực hiện trong một ngôi làng gần Nadarét không thể không đến tai của Đức Maria. Và sau khi con Mẹ sống dậy, Người ta biết bằng cách nào mà các kỷ niệm có thể trỗi dậy khi Mẹ có thể đối chiếu hai hoàn cảnh: Một góa phụ… một con trai duy nhất đã chết…được trao lại cho bà mẹ…
Luca, thánh sử về phụ nữ, không bỏ qua việc nhấn mạnh những chi tiết cảm động. Trong Kinh Thánh “các quả phụ” chính là biểu tượng của loài người nghèo mà Thiên Chúa bảo vệ một cách đặc biệt. Ở đây, sự đau thương tới mức cùng cực. Người đàn bà ấy đã thình lình chịu hai cái chết sớm: chồng bà và con trai bà. Vả lại trong thời đại ấy (ngày nay cũng chẳng như thế hay sao, dù quy mô có khác?) điều kiện của người phụ nữ ‘ đặc biệt khắc nghiệt khi họ không có chăng, và con trai: Chỉ người chồng hoặc con trai đủ để tạo thành sự bảo trợ hợp pháp và bảo đảm các phương tiện sống cho bà. Tôi có quan tâm đến những cảnh nghèo khó và khốn khổ âm thầm, những cảnh khốn khổ đã trở thành quen thuộc?
Có một đám đông trong thành cùng đi với bà.
Trong tất cả các thánh sử, Luca là người kể chuyện biết mồ tả tỉ mỉ câu chuyện như trong hình thức văn chương. Ở đây hiệu quả của phim ảnh đã được chuẩn bị tốt: Vậy có hai “đám đông”, hai đoàn người sắp gặp nhau ở cổng thành Nain. Một đám ma đi ra. Các môn đệ của Đức Giêsu tiến đến.
Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương.
Không phải vì sự tình cờ mà Luca sử dụng từ “O kurios” trang trọng để nói về Đức Giêsu. Luca chiếu trước ánh sáng Phục sinh trên người chết ấy mà người ta đem đi chôn. Danh hiệu Đức Chúa chỉ Chúa Thượng (Yahvé) trong bản Bảy mươi (Kinh Thánh dịch ra tiếng Hy Lạp một vài năm trước Đức Kitô) và Giáo Hội tiên khởi sẽ áp dụng cho Đấng Phục sinh. Luca thích dùng từ’ này trước cả lúc Chúa Phục sinh. Đó là cách ngài dùng để gđit lên tăn tính mầu nhiệm của Đức Giêsu Nadarét. Luca dùng mười chín lần danh hiệu vinh quang này, trong khỉ Mát-thêu và Máccô mỗi Người chỉ dùng có một lần. Cũng thế, từ “chạnh lòng thương”, “esplanchnisthè” không được dùng mà không có lý sao. Từ Hy Lạp này, có nghĩa chính xác là “xúc động đến ruột gan”, hầu thư luôn luôn được áp dụng cho tình yêu thương của Thiên Chúa. Đối với loài người trong các Phúc âm. Phần đông các tôn giáo lớn đã được xây dựng trên ý tưởng về một thượng đế “vô cảm”, “xa lạ”, “toàn năng”. Ít-ra-en đã nhập được mạc khải về một Thiên Chúa “như mẹ hiền” có lòng dạ, ruột gan (Hôsê 1,6-7 – 2,21; Thánh Vịnh 51,3..; Isaia 49,15). Còn giờ đây trong Đức Giêsu, Thiên Chúa xuất hiện rất là nhân bản, dễ bị tổn thương, gần giũ, có thể cảm xúc trước cảnh tang thương. Đức Giêsu chính là nhân tính của Thiên Chúa, có thể nói như Vậy.
Không nên có ý định hợp lý hóa những điều đó. Các Công đồng của ba thế kỷ đầu tiên, dù đã sử dụng những ý niệm rõ ràng hơn của triết lý HyLạp nhưng ít ra đã can đảm không giản lược mầu nhiệm Đức Giêsu và khẳng định một cách rõ ràng hai khía cạnh mâu thuẫn trong ngôi vị của Người vừa là người vừa là Đức Giêsu. “Đức Chúa xúc động đến ruột gan”. Luca đã dám viết nhu thế. Lạy Chúa là Đức Giêsu, con cám ơn nhân tính của Ngài? Trong giây phút này đây, con muốn chiêm ngắm sự xúc động đang làm trái tim Chúa thổn thức Trước mọi người đã’ qua đời của trái đất này, Lạy Chúa, Chúa luôn luôn có sự xúc động đó. Chúa sắp làm gì trong- ngôi làng bé nhỏ Nain gần cổng thành? Chúa sẽ ban cho dấu chỉ nào?
Người nói: “Bà đừng khóc nữa!” Rồi Người lại gần sờ vào quan tài.
Tôi nghĩ đến mọi bà mẹ đang khóc thương con mình… đã chết, đã đi xa, lầm lạc, đã gieo bao lo lắng, đánh mất đức tin. Mầu nhiệm đáng tôn trọng của những dòng nước mắt các bà mẹ của chúng ta là một phần sức nặng không thể tránh khỏi của thân phận con người. Với tất cả những ai tín thác nơi Người và đi đến tận cùng đức’ tin của họ thì Đức Giêsu sẽ mang lại một sự an ủi chân thật. Không có một tấm lòng đau buồn nào của người mẹ khóc than mà Đức Giêsu không dịu dàng đến gần nói nhỏ: “Đừng khóc nữa”. Lạy Chúa xin hãy tăng thêm đức tin trong con.
Các người khiêng dừng lại, Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!”
Từ “hãy trỗi dậy!” này là mệnh lệnh cách của động từ “égeirein” là động từ được dùng để chỉ sự sống lại của Đức Giêsu (Lc 9,22 – 24,6-34), và sự sống lại của những người được chọn trong ngày cánh chung (Lc 20,37). Nhưng động từ này cùng chỉ điều xảy ra một cách mầu nhiệm trong phép rửa tội: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi”(Ephêsô 5,14). “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người (Côlôsê 2;12). “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Côlôsê 3,l).
Vì thế, lời khẳng định sau đây của Garaudy là đúng nhưng không đầy đủ: ‘ “Sự sống lại đối với Đức Kitô và các môn đệ Người chính là một cách tồn tại mới…phép lạ thật sự có thể nhận thấy và không thể bác bỏ về mặt lịch sử. Đó là một sự việc lạ lùng còn hơn cả một sự vi phạm thần kỳ các quy luật của sinh học, hơn cả một câu chuyện về ngôi mộ trống, hoặc về một trận động đất đáp lại tiếng kêu của người đang hấp hối… phép lạ thật sự, không chỉ là Đức Kitô, mà là tất cả các môn đệ ngày hôm trước còn sợ hãi); họ đã bắt đầu sống một cuộc sống mới cuộc sống của Thần Khí” (Lời kêu gọi gởi những người sáng, tr. 182).
Nếu sự sống lại của Đức Giêsu chỉ là chuyện “thần kỳ” thì mọi cuộc “nổi dậy để giải phóng” của chúng ta rất đáng nực cười. Sự sống lại đích thực là sự thánh thiêng. Nó không thuộc quyền năng của con người. Và vì thế, chúng ta hãy, nói rõ điều này, sự sống lại không thể do tưởng tượng, cũng không thể do lý luận bằng những ý niệm rõ ràng.
Tuy nhiên, người ta không thể nói rằng sự sống lại trái với tự nhiên, “vi phạm quy luật của sinh học”, ít là trong một ý nghĩa nào đó. Bởi lẽ sự trường tồn là ước nguyện phổ quát của toàn ‘thể tự nhiên: Mọi sinh vật, dù là thực vật hay động vật đều được khắc ghi trong nó một bản năng.mạnh mẽ và dai dẳng về sự bảo tồn và sinh sản để được sống mãi… và mọi nền văn minh và tôn giáo đều có niềm tin vào sự sống đời đời. Chỉ có con người phương Tây từ ít lâu nay đã đánh mất xác tín vào sự sống đời đời. Về vấn đề này, so với toàn thế giới, họ chỉ là thiểu số.
Về vấn đề phổ quát ấy, tính độc đáo của đức tin Kitô giáo hợp lý tuyệt vời theo cách của nó. Vì là một “mạc khải” đến từ Thiên Chúa, đức tin ấy chủ yếu là dám khẳng định rằng với Đức Giêsu, Thiên Chúa đã bước vào số phận hay chết của con người chúng. ta (Phi-lip-phê 2,6-11) để lôi kéo chúng ta đi theo số phận thánh thiêng hằng sống của Người: “Như Chúa Cha, là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ chờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57). “Và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40).
Phép rửa tội là sự tham dự trước vào đời đống vĩnh cửu ấy: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rôm 6,4).
Còn chúng ta, những người đã chịu phép rửa tội, chúng ta có thật sự sống một đời sống mới chưa?
Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kính sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Lời này được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê và vùng lên cận.
Từ “viếng thăm” của Thiên Chúa rất gợi ý. Một cuộc “viếng thăm” là một sự can thiệp tạm thời ngắn ngủi. Như thế Thiên Chúa không hiện ra cách liên tục như quyền lực chiến thắng sự chết. Và vì “một thanh niên” ngày hôm đó sống lại trong một ngôi làng miền Giu-đê trong số hàng tỉ người đã chết, thật vậy, từ lúc thế giới bắt đầu. Nhưng trong cuộc viếng thăm đặc biệt này mà Thiên Chúa thực hiện trong Đức Giêsu, Người đã cho chúng ta “dấu chỉ thời thế mạt”: Một ngày kia, khi Thiên Chúa sẽ là “tất cả trong tất cả”, lúc đó sẽ không còn nước mắt, sẽ không còn sự chết, tang tóc, kêu than và đau khổ nữa (Khải huyền 21,4). Thế gian không còn phi lý nữa. Nó không còn bị giam hãm trong sự hữu hạn. Không phải là Thiên Chúa, nghĩa là bất toàn trong một thời gian, chúng ta được hứa cho thông phần vào “bản tính của Thiên Chúa” (2 Pí I,4).
Sự sống lại ấy của người thanh niên ở Nain liên quan đến tôi ở điểm cao cả nhất.
- Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
Phục Sinh Cho Con Trai Bà Góa Thành Nain
Một trình thuật phép lạ thật khéo. Việc chữa lành này, trong đó Chúa Giêsu cho một kẻ chết trở về cuộc sống trần gian, là riêng của Luca; ngoài câu chuyện về con gái ông Gia-ia (8,49tt, với các đoạn song song ở Maccô và Matthêu), Luca còn kể lại hai lần làm cho kẻ chết sống lại nữa trong Công vụ do Phêrô (Cv 9,36-43) và do Phaolô (Cv 20,7-12). Trình thuật này được sắp xếp ở đây để chuẩn bị lời đáp của Chúa Giêsu cho câu hỏi của vị Tẩy Giả về căn cước của Ngài: “Kẻ chết sống lại” (7,22).
Hai đám đông gặp nhau, một đám theo Chúa Giêsu, đám kia theo một bà goá đi chôn đứa con trai ở ngoại thành. Theo phong tục, người ta chôn cất chính ngày chết hay vài giờ sau đó. Không phải vì người chết mà Chúa Giêsu chạnh lòng thương, mà vì người phụ nữ từ nay không còn đứa con trai để nuôi sống gia đình nữa.
Trình thuật của Luca đưa độc giả theo hai hướng. Một đàng, trong diễn tiến của trình thuật Luca gọi Chúa Giêsu là Chúa, đúng tước hiệu của Đấng bị đóng đinh và đã sống lại (Cv 2,36); đó là tuyên xưng Chúa Giêsu là vị chiến thắng tử thần. Đàng khác, Luca tăng thêm những quy chiếu về một trong hai phép lạ tương tự trong Cựu Ước, việc Phục Sinh con trai bà goá thành Sarepta do Êlia (1V 17,17-24), bà goá này đã được Chúa Giêsu nhắc đến ở Nagiaret khi nói về phép lạ khác của Êlia mà bà đã được hưởng nhờ (4,26); Luca nói đến cửa thành đến một bà goá mất đứa con trai duy nhất, đến người chết lại nói được, đến công thức: “Người trao anh ta cho mẹ anh”. Đó là những ghi chú để cho thấy rằng Chúa Giêsu có một quyền năng giống như Êlia, vị ngôn sứ vĩ đại sẽ trở lại vào thời kỳ cuối cùng (Ml 3,22-24); hơn nữa, những gì Cựu Ước nói về Êlia cho biết rõ hơn về Chúa Kitô. Đối với Luca, người cẩn thận tránh đồng hoá vị Tẩy Giả với Êlia (khác với mc 9,11-13; Mt 17,10-13), Chúa Giêsu đích thị là Êlia của thời cuối cùng.
Một trong những nét của trình thuật Luca khác với khuôn mẫu của Cứu chuộc không phải là không có ý nghĩa. Khi mà Êlia phải nằm dài ra lên trên đứa bé (1V 17,21) và người kế vị ông là Êlisê phải thực hiện bảy lần thở nhân tạo (2V 4,34-35), thì Chúa Giêsu chỉ cần một lời nói; việc Ngài sờ vào quan tài chỉ là để cho đoàn đưa đám ngừng lại. Với uy quyền, Ngài truyền cho người thanh niên trỗi dậy, đó là một trong hai từ được dùng trong bài giảng Phục Sinh để tuyên xưng việc Phục Sinh của Chúa Giêsu; chính với tư cách là Đức Chúa có quyền trở nên sự sống và sự chết mà Chúa Giêsu hành động. Lời nói của Ngài tái lập liên hệ giữa chàng thanh niên với đám người chung quanh, đã bị cắt đứt do cái chết: anh bắt đầu nói. Cần ghi nhận rằng việc anh được trả lại cho mẹ anh ta nhắc ta nhớ chính vì cảm thương bà mà Chúa Giêsu đã làm như thế.
Như rất thường thấy trong các trình thuật phép lạ, đoạn kết ghi lại phản ứng của những người chứng kiến. Tất cả, đám đông và các môn đệ (cc.11-12), nhận thấy nơi Chúa Giêsu một vị Ngôn Sư vĩ đại đã trỗi dậy –cũng một động từ như câu 14! Việc nhận biết này dĩ nhiên chưa phải là trọn vẹn, bởi vì nó không tuyên xưng Chúa Giêsu là vị Ngôn Sứ cuối cùng, Đấng phải đến (c.19). Tuy nhiên không phải nó không có giá trị, bằng chứng là mọi người nhận ra trong phép lạ, cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, Đấng đến để giải thoát Israel, đó là sự can thiệp đầy nhân hậu mà Giacaria đã ca tụng (1,68-78). Và tin này được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận.
Đâu là biến cố lịch sử ẩn tàng trong câu chuyện về việc trở lại tạm thời với đời sống trần thế – quả thực, người thanh niên ở Nain này đã chết thật sự một tháng, mười năm hoặc năm mươi năm sau khi Chúa Giêsu cho anh sống lại? Vào thế kỷ thứ nhất, nơi dân Do Thái, người ta nghĩ rằng tinh thần của người chết lảng vảng trong ba ngày xung quanh thân xác trước khi xuống nơi chốn dành cho người chết. Cũng tương tự như vậy, nghiên cứu hiện đại cho biết cái chết không phải là việc đứt đoạn trong giây lát, mà là một tiến trình phức tạp, là nhiều những tan vỡ liên tiếp cộng lại; cái chết gồm nhiều giai đoạn. Nhân danh điều gì để từ chối tin rằng một thanh niên, đã vượt qua nhiều rào cản của sự chết, đặc biệt là sự bất hiệp thông, đã có thể trở lại cuộc sống nhờ lời của Chúa Giêsu? Dù sao, vấn đề của các cộng đoàn Kitô sau Phục Sinh thì lại hoàn toàn khác; họ không tìm để biết cái gì đã xảy ra sau khi người thanh niên được chữa lành một cách lạ lùng! Họ đã khởi đi từ sự kiện này để giảng dạy một giáo lý về quyền năng của Chúa Kitô trên cái chết: Đấng Phục Sinh sẽ ban cho những kẻ thuộc về Ngài, sau khi họ chết, một đời sống vĩnh hằng hoàn toàn mới mẻ.