Chúa sai chúng ta đi
Mc 6,7-13
7 Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế. 8 Và Người truyền các ông đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, 9nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. 10 Người lại bảo: “Đến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. 11 Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ”. 12 Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. 13 Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
(Nguồn: Uỷ ban Thánh Kinh / HĐGMVN)
“Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi.” (Mc 6,7)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta thường nghe nói tới hai chữ “thừa sai”: Giáo Hội chúng ta là một Giáo Hội “thừa sai”, mỗi tín hữu chúng ta là một “thừa sai”. “Thừa sai” là gì? Là được sai đi. Ngày xưa Ðức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Ngày nay Ngài cũng sai chúng ta như thế.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa dạy cho chúng ta hiểu rõ hơn để chúng ta thi hành sứ mạng này.
II. Gợi ý sám hối
- Xưa nay chúng ta chỉ lo “giữ đạo” mà không để ý đến “truyền đạo”.
- Chúng ta chưa ý thức mình được Thiên Chúa sai đi để mang Tin Mừng đến cho người khác.
- Trong những lúc khó khăn, chúng ta chưa phó thác đủ vào sự quan phòng của Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Am 7,12-15)
Amos sinh sống ở tiểu vương quốc Giuđa (miền Nam), nhưng Chúa sai ông lên tiểu vương quốc Israel (miền Bắc) để làm ngôn sứ nói lời Ngài.
Vì trung thực nói lời Chúa, nên Amos bị dân Israel ghét. Một vị tư tế tên Amasia còn đuổi ông về Giuđa.
Amos đáp lại: Ông chỉ là một nông dân chứ không thuộc dòng dõi ngôn sứ cho nên không quen làm ngôn sứ. Nhưng chỉ vì Thiên Chúa sai ông nên ông phải vâng theo.
Trong một đoạn khác không thuộc trích đoạn này, Amos còn nói một câu rất ý nghĩa cho thấy sự thúc bách của lệnh Chúa sai đi: “Sư tử gầm lên, ai lại không sợ; Ðức Chúa Giavê phán, ai lại không nói tiên tri?” (Am 3,8)
2. Ðáp ca (Tv 84)
Trích đoạn Tv 84 này có thể được coi là nối tiếp ý tưởng của bài đọc I: người được Thiên Chúa sai đi phải quan tâm “lắng nghe điều Thiên Chúa phán”, đó là những lời mang lại bình an và ơn cứu độ.
3. Tin Mừng (Mc 6,7-13)
Trong giai đoạn đầu của việc rao giảng Tin Mừng, trung tâm hoạt động của Ðức Giêsu là thành Caphácnaum và những thành ven bờ hồ Ghênêdarét. Bây giờ bước vào giai đoạn 2, Ngài sai các tông đồ từng hai người một đi đến những vùng khác.
- Sứ mạng của các ông là rao giảng sự thống hối và trừ quỷ, chữa bệnh.
- “Phương tiện” của các ông chỉ có tối thiểu, còn tất cả những điều khác đều phó thác cho Chúa quan phòng lo liệu.
4. Bài đọc II (Êp 1,3-14)
Thánh Phaolô trình bày chương trình cứu độ của Thiên Chúa:
- Ngài đã chọn chúng ta trước khi tạo thành thế gian.
- Tiền định cho chúng ta được phúc làm con Ngài nhờ Ðức Giêsu Kitô.
- Cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của chính Ðức Giêsu Kitô.
- Ban Thánh Thần cho chúng ta.
IV. Gợi ý giảng
1. Chúa cần đến chúng ta
Trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, một ngôi làng bị pháo kích nặng nề. Giữa làng có một ngôi nhà thờ, trước nhà thờ có một tượng Ðức Giêsu được đặt trên một cái bệ. Nhưng sau khi khói lửa của trận pháo kích tan đi, người ta chỉ còn thấy cái bệ, còn pho tượng thì biến đâu mất. Những người lính đồng minh cố gắng đi tìm và cuối cùng cũng tìm thấy tượng Chúa bị văng khỏi đó một khoảng khá xa. Tuy nhiên hai cánh tay của Chúa đã bị hỏng mất. Họ cung cấp một chiếc máy bay để chở pho tượng về Mỹ cho thợ làm lại hai cánh tay. Nhưng Cha Xứ từ chối. Cha bảo cứ đặt pho tượng lên bệ như cũ, phía dưới viết thêm hàng chữ: “Các con thân mến, hãy cho ta mượn đôi cánh tay của các con”.
Câu chuyện trên giúp ta hiểu sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay: Ðức Giêsu kêu gọi các tông đồ tham gia công việc của Ngài. Ngài chia sẻ sứ mạng với họ. Ngài ban cho họ chính quyền năng và uy tín của Ngài. Rồi Ngài sai họ đi loan truyền Tin Mừng. Thực ra, họ chỉ là những người chài lưới, cả tài năng lẫn đức độ đều không có bao nhiêu. Nhưng Ngài vẫn chia sẻ sứ mạng cho họ, vì họ sẽ thi hành sứ mạng không phải bằng sức riêng của họ, mà bằng ơn Chúa.
Ngày nay, có nhiều đấng có thẩm quyền vẫn e ngại không chia xẻ công việc cho giáo dân; mặt khác, nhiều giáo dân cũng e ngại không dám gánh trách nhiệm trong Giáo Hội. Cả hai phía đều tính toán thành bại dựa trên khả năng của con người. Nhưng đó không phải là tính toán của Thiên Chúa.
Hãy nhớ rằng Sách Thánh bắt đầu bằng chuyện Thiên Chúa giao cho loài người quyền hợp tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo vũ trụ; bài đọc I hôm nay kể chuyện Thiên Chúa giao cho Amos sứ mạng làm ngôn sứ cho dân Israel mặc dù ông chỉ chuyên nghề chăm sóc cây sung; và bài Tin Mừng kể chuyện Ðức Giêsu sai 12 tông đồ vốn là những dân chài sứ mạng truyền giáo. (Viết theo Flor McCarthy)
2. Phó thác trong tay Chúa
Bài Tin Mừng này nói đến tinh thần Phó Thác mà Chúa muốn các Tông đồ phải có trong khi đi truyền giáo. Phó Thác là một nhân đức quan trọng, nhưng nhiều người không hiểu đúng.
- Chẳng hạn một người kia mắc bệnh, không lo chữa trị mà cũng chẳng có biện pháp giữ gìn sức khoẻ gì hết, mà lại nói “Tôi phó thác tất cả cho Chúa”. Như thế có phải là phó thác không? Dĩ nhiên là không.
- Hay một người khác không chăm chỉ làm ăn, tiêu xài thì chẳng tính toán cân nhắc, rồi lâm cảnh túng thiếu. Cũng nó: “Xin phó thác tương lai trong tay Chúa”. Có phải là phó thác không? Dĩ nhiên cũng là không.
- Xin thêm một thí dụ nữa: làm cha mẹ chẳng lo sửa dạy con cái, để cho chúng hư thân mất nết, rồi bảo “Phó thác cho Chúa”. Có phải là Phó thác không? Cũng không phải.
Nếu những trường hợp kể trên mà là Phó Thác, thì Phó thác chẳng còn phải là một nhân đức nữa, nhưng là một tính xấu: tính lười biếng, thụ động. Ðạo Công giáo mà chủ trương phó thác kiểu đó thì cũng không oan ức gì khi bị người khác chế nhạo là đạo tiêu cực, đạo cảm trở sự tiến bộ….
Ngược lại, đứng trước một công việc mà mình lo lắng thái quá, làm như Chúa để một mình mình phải lo, thì cũng không phải là phó thác. Rồi trong khi lo công việc mà quá cậy dựa vào những phương tiện vật chất, thế tục, không tin tưởng vào ơn Chúa giúp, cũng không phải là phó thác.
Vậy phó thác là gì? Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa dạy các tông đồ có tinh thần phó thác đúng nghĩa: khi các ông ra đi truyền giáo, các ông chỉ cần một số phương tiện vật chất vừa đủ: một cây gậy để chống lại thú dữ dọc đường, một chiếc áo mặc, một đôi dép để đi, thế thôi. Ðừng quá lo lắng về vật chất: không cần mang lương thực dự trữ, không cần thủ cho nhiều tiền trong túi, không cần tới hai áo, không cần mang bị theo để đựng quà biếu của người khác. Về nơi ăn chốn ở cũng thế, miễn sao có chỗ trọ là được, nhà nào cho mình trọ, thì cứ trọ bất kể giàu hay nghèo, đừng chọn lựa nhà này hay nhà khác để có tiện nghi hơn. Nhà nào không cho mình trọ thì mình ra đi không chút lưu luyến. Ðiều chính yếu quan trọng mà các ông phải cậy dựa vào, đó là quyền năng của Chúa.
Qua đoạn Tin Mừng trên, chúng ta hiểu Phó Thác là đứng trước một công việc, một mặt mình không được lười biếng buông trôi nhưng phải vận dụng hết sức mình để làm cho được; mặt khác không ỷ sức riêng mình mà còn phải cầu nguyện xin Chúa ban ơn giúp sức. Và khi đã cố gắng hết sức mình đồng thời đã tin cậy vào ơn Chúa như thế, sau đó công việc diễn tiến thế nào đi nữa mình cũng không quá lo lắng sợ sệt, vì mình đã Phó thác cho Chúa.
Như thế, đứng trước một vấn đề khó khăn, nếu ta ngả lòng nản chí thì là thiếu phó thác; nhưng nếu ta quá lo lắng cậy dựa vào khả năng riêng của mình để giải quyết thì cũng là thiếu phó thác.
Chúng ta hãy làm như một đứa bé tập đi: bàn tay nhỏ bé của nó nắm chặt bàn tay Cha nó, đôi chân nhỏ bé của nó can đảm bước đi từng bước từng bước, và lòng nó thì rất an tâm, vì nó biết chắc có Cha nó luôn sẵn sàng nâng đỡ mỗi khi nó xảy chân. Phó thác là như thế.
3. Chúa sai tôi đi
Sau thế chiến thứ nhất, một linh mục trẻ người Pháp được bài sai đi coi xứ. Tay xách vali, cha mạnh dạn ra đi truyền giáo. Ðến nơi chỉ thấy hầm sâu, tường đổ. Nhà thờ, nhà xứ, chỉ còn duy nhất một bức tường xiêu vẹo.
Không một chút sờn lòng, cha cùng với các tín hữu tích cực kiến thiết lại ngôi thánh đường đổ nát. Chẳng bao lâu sau, đền thờ vật chất đã hoàn thành khang trang đẹp đẽ. Giờ đây, cha lại tiếp tục xây dựng đền thờ tâm hồn. Nhờ đời sống gương mẫu, cha đã tu sửa lại lòng đạo đức của cả đoàn chiên.
Tuổi cha chưa cao nhưng đã kiệt sức, giữa lúc tình cha con đang mặn nồng, gắn bó. Dầu vậy, nằm trên giường bệnh, cha vẫn thản nhiên vui vẻ. Giờ hấp hối đến, cha nhỏ nhẹ nói với những người chung quanh:
– Giờ đây tôi vui mừng vì đã trung thành giữ lời nhủ bảo của thân phụ ngày tôi chịu chức linh mục: “Nay con làm linh mục Chúa, cha chỉ cầu ước cho con 3 điều: Thứ nhất, lúc con chết đừng nợ ai xu nào; Thứ hai, khi qua đời con cũng chẳng còn xu nào; Thứ ba, lúc lâm chung con đừng vướng một chút tội nào với Chúa”. Và ngài an bình đi về với Ðấng mình đã trọn đời dâng hiến.
*
Vị linh mục trong câu chuyện trên đây, không những đã làm theo lời khuyên của thân phụ, mà còn thi hành đúng lời dạy của Ðức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Khi sai các tông đồ đi truyền giáo, Chúa phán: “Không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc…” (Mc.6,8). Hành trang của các ông chỉ là chiếc áo đang mặc, cây gậy và đôi dép đi đường. Vì chính Người đã từng nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, con Người không có chỗ dựa đầu”. Người muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào Chúa, phó thác cho tình yêu quan phòng của Người, và cậy dựa vào lòng tốt của tha nhân.
Ðó là thân phận của kẻ được sai đi: ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Vì “Phaolô trồng, Apollo tưới và Chúa mới cho mọc lên” (1Cr.3,6).
Hôm nay Chúa cũng sai chúng ta đi vào lòng thế giới, để “rao giảng sự sám hối” (Mc.6,12). Sám hối rất khó nói vì chẳng mấy ai thích nghe. Ðó cũng là thách thức của người tông đồ: can đảm nói lên những điều phải nói. Nói mà không giảm nhẹ những đòi hỏi của Tin mừng. Nói mà không lợi dụng tin mừng để mưu cầu cá nhân. Nói mà không trích dẫn Tin mừng để khoe khoang kiến thức. Nói mà không bóp méo Tin mừng để vuốt ve quần chúng. Dù sao Tin mừng vẫn phải được loan báo. Chúng ta hãy xem câu nói của Thánh Phaolô như là của chính mình: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cr.9,16).
Hôm nay, Chúa cũng trao cho chúng ta những quyền năng như hành trang để lên đường. Ðó là quyền rao giảng Tin mừng, quyền trừ quỷ và quyền chữa bệnh.
Chúng ta có thể chia sẻ Tin mừng với niềm hân hoan của người tìm được viên ngọc quí.
Chúng ta có thể nói về Chúa như nói về một người bạn thân.
Chúng ta có thể xua trừ quỉ bằng cách đẩy lui những thói hư tật xấu.
Chúng ta có thể chữa bệnh bằng cách lau khô những giọt lệ của bao người quanh ta.
*
Lạy Ðức Giêsu, mỗi thánh lễ là một bài sai, mỗi bài Tin mừng là một sứ điệp Chúa gởi cho trần gian qua từng người chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ cậy dựa sức riêng mình, nhưng tin tưởng vào quyền năng Chúa mà chu toàn sứ vụ Người đã trao ban. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
4. Những lời chói tai
Chúng ta hãy tìm hiểu bài đọc thứ I, được trích từ sách tiên tri Amos.
Amos không phải là một ngôn sứ chuyên nghiệp. Hằng ngày làm ăn sinh sống bằng nghề chăn chiên và hái trái sung. Nhưng một ngày kia Thiên Chúa bảo ông hãy lên miền Israel công bố Lời Chúa. Lúc ấy nước Do thái đang chia cắt thành hai miền vừa khác nhau vừa đối nghịch nhau; miền Nam nơi Amos đang sinh sống là Yuđa, còn miền Bắc là Israel. Mà Israel lúc đó đang vào hồi thịnh vượng, giàu có. Tuy nhiên đó chỉ là thịnh vượng giàu có về mặt vật chất, chứ về tôn giáo và luân lý xã hội thì rất tồi tệ.
- Về tôn giáo: người dân Israel thờ Chúa ở Ðền Thờ Bethel. Họ dâng hiến rất nhiều lễ vật. Nhưng họ cũng ỷ rằng vì họ đã dâng nhiều lễ vật cho nên họ chẳng cần phải sống đạo đức. Chúa đã nhận lễ vật của họ cho nên Chúa có bổn phận phải che chở cho họ. Ðó là một thứ đạo đức bề ngoài.
- Còn về luân lý xã hội thì đầy dẫy những xấu xa: người giàu bóc lột, ức hiếp người nghèo, thói làm ăn gian lận, kẻ có nhiều tiền thì có tất cả, còn kẻ không có tiền thì thua thiệt mọi mặt.
Vì vâng lệnh Chúa, Amos đã từ giả nếp sống bình dị ở miền Nam Yuđa để lên miền bắc Israel. Ông lớn tiếng công kích tất cả những tệ nạn xấu xa vừa kể trên. Ông can đảm vạch tội của mọi hạng người từ vua chúa, đến các tư tế và những người giàu có. Và dĩ nhiên là những người này tức giận. Nhưng người tức giận nhất là Amasia, một ngôn sứ chuyên nghiệp ở đền thờ Bethel. Xưa nay Amasia vẫn cấu kết với giới hoàng gia và những người giàu có, dùng quyền tiên tri để nói những điều vừa ý họ. Bây giờ ông cũng thay mặt họ chống lại Amos. Ðại khái ông mỉa mai Amos rằng: nếu nhà người có muốn kiếm ăn bằng cái nghề ngôn sứ này thì tốt hơn hãy trở về miền Yuđa của nhà ngươi mà nói tiên tri đi. Ở đây mà nói tiên tri giọng đó thì chẳng ăn khách đâu. Ðối lại Amos trả lời: tôi đâu phải là một người kiếm sống bằng nghề ngôn sứ . Tôi chỉ là một nhà nông thôi. Nhưng vì Chúa sai tôi đến đây nói tiên tri thì tôi phải đến và nói, và bổn phận của tôi là phải truyền đạt lại đúng y như lời Chúa. Amasia tức bực. Ông ta vận động với triều đình Israel ra lệnh trục xuất Amos. Thế là Amos phải trở về quê cũ.
Ca dao có câu: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Ðó là một thái độ khôn ngoan, khôn ngoan vì lời mình nói không đụng chạm ai và dễ được người ta chấp nhận, người ta còn thích mình nữa. Ðó là kiểu khôn ngoan của tiên tri Amasia: ông đã nói những lời thuận tai vừa lòng những bậc vua chúa và những người giàu có, và họ đã ưu đãi ông, ông được hưởng một cuộc sống sung túc dễ chịu. Nhưng kiểu khôn ngoan đó không đem lại lợi ích thực sự cho dân. Dân Israel bị ru ngủ bởi những lời dễ chịu ấy cứ tiếp tục dấn sâu mãi trong những tội lỗi của mình, để rồi đến khi Thiên Chúa ra tay trừng phạt thì hối tiếc đã muộn. Năm 721 Chúa để cho đất nước họ bị xâm lược, dân chúng bị bắt, đi lưu đày. Tục ngữ cũng có câu “Thuốc đắng đã tật lời thật mất lòng”. Những lời nói thành thật, dám vạch ra những cái xấu thì thường không được người ta ưa nghe, lại còn làm cho người ta ghét mình nữa. Có thể coi đó là một thái độ ngu dại. Ðó là cái ngu dại của Amos. Thế nhưng cái ngu dại ấy lại có ích. Nếu như dân Israel chịu nghe lời của Amos mà sửa đổi những tật xấu của mình thì họ đã được Chúa thương tha thứ.
Như vậy là có 2 kiểu nói: Kiểu nói thuận tai của Amasia và kiểu nói chói tai của Amos. Tự nhiên thì chúng ta thích nghe những lời nói kiểu Amasia. Thế nhưng nếu chúng ta muốn hoàn thiện đời mình thì chúng ta phải tập lắng nghe những lời nói kiểu Amos. Vậy ai là những Amos của chúng ta ngày nay? Trước hết đó là những Linh mục có nhiệm vụ giảng dạy Lời Chúa. Kế đó là những người thiện chí muốn sửa đổi chúng ta. Và kế tiếp nữa phải kể cả những người không ưa chúng ta mà chỉ trích chúng ta. Trước những lời nói thẳng nói thật, nhiều người tức bực, chẳng những không là một người muốn kiếm ăn bằng nghề tiên tri. Chúng ta cũng có phản ứng tương tự khi tìm cách nói xấu lại người dám nói thẳng vạch cái xấu của chúng ta: nào là người ấy bịa chuyện, nào là bản thân người ấy cũng chẳng tốt lành gì, có khi còn vạch ra những cái xấu của người ấy hay thậm chí bịa ra những điều xấu gán cho người ấy để làm giảm uy tín của họ và để che giấu chính cái xấu của mình. Nghĩa là trên cương vị người nghe, chúng ta phải tập khiêm nhường để sẵn sàng lắng nghe những tiếng nói chói tai vạch những cái xấu của mình.
Còn trên cương vị người nói, nếu nói kiểu Amasia để làm vừa lòng người ta thì thật là quá đã, nhưng chúng ta phải tập cho có can đảm để dám nói theo kiểu Amos, dám vạch thẳng những cái xấu của người khác. Nhưng chúng ta đừng hiểu lầm Amos, cho rằng Amos đã làm gương cho chúng ta về việc nói xấu nói hành. Amos nói thẳng nói thật chứ không phải nói xấu nói hành. Người nói là thẳng nói thật là người nói trước mặt người nghe. Còn người nói xấu nói hành là người trước mặt thì nói tốt hoặc không dám nói, nhưng sau lưng thì nói xấu. Thực ra, biết được một điều xấu của người khác thì rất dễ, nhưng chỉ cho người ta biết cái xấu của họ một cách thẳng thắn thì là khó, và giúp cho người ta sửa được cái xấu ấy lại càng khó hơn nhiều. Vậy trong thực hành, khi chúng ta biết một điều xấu của người nào đó, nếu chúng ta có can đảm tới nói thẳng với người đó để người đó sửa lỗi thì chúng ta hãy nói, cho dù lời nói của mình có thể làm cho người ta khó chịu, người ta ghét mình. Còn nếu chúng ta không có đủ can đảm như vậy thì thà chúng ta im lặng, đừng nói lén sau lưng, đừng rỉ tai, đừng nói lại cho bất cứ ai nghe, vì như thế chẳng những không có lợi mà chỉ có hại và còn có tội nữa.
Tuy nhiên có lẽ chúng ta nên tìm một giải pháp dung hoà giữa hai thái độ của Amasia và Amos. Amasia chỉ nói ngọt nên được người ta ưa nghe nhưng không làm lợi cho người ta. Còn Amos thì nói lời chói tai nên người ta không chịu nghe, còn bị người ta ghét và xua đuổi. Thái độ dung hoà là nói thật nhưng ngọt ngào. Vừa dễ nghe vừa sửa được lỗi của người khác. Và ngọt ngào thì không gì ngọt ngào bằng yêu thương. Vì yêu thương người có lỗi mà ta nói, và nói làm sao để người nghe hiểu rằng ta nói vì ta thương họ; và kết quả là vì họ biết ta thương họ nên họ sẽ cố gắng sửa mình để đáp lại tình thương của ta.
Con người có tai để nghe và lưỡi để nói. Trong chữ Nho, chữ “Thánh” là do 3 chữ ghép lại: chữ Vương ở dưới có nghĩa là vua, phía trên có chữ Nhĩ là lỗ tai và chữ Khẩu là cái miệng. Vậy Thánh, theo chữ Nho, có nghĩa là người làm chủ được sự nghe và sự nói của mình. Làm chủ được sự nghe là không phải chỉ thích nghe những lời nói khen mà còn dám nghe những lời phê bình thẳng thắn; làm chủ sự nói là không phải bạ đâu nói đó, nói một cách vô trách nhiệm, nói hành nói xấu, nhưng là nói đúng, nói thật, nói khéo, nói với tình thương để lời nói của mình đem lại lợi ích xây dựng cho người khác.
5. Một tấm gương
Một tội nhân được giong đi pháp trường. Ðến nơi hành quyết lính vây quanh thành ba vòng: vòng trong cầm gươm, vòng giữa cầm giáo, vòng ngoài cầm cờ, sĩ quan oai vệ cưỡi ngựa cưỡi voi. Bỗng tội nhân lên tiếng nói đôi lời với những người có mặt, sau đó nói riêng với viên chỉ huy. Với viên chỉ huy tội nhân nói:
“Tôi xin gửi quan 30 đồng tiền để xin quan một ân huệ: xin đừng chém tôi một nhát, nhưng chém ba nhát. Nhát thứ nhất, tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi, và đưa tôi đến đất Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành nên tôi. Còn nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí trong đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình. Và như thế họ đáng lãnh phần phúc cùng các thánh trên trời.”
Tội nhân là Ðức Cha An vừa dứt lời, lính liền trói ngài vào cây cọc hình thập giá. Dân công giáo có mặt oà lên khóc. Lính chém Ðức Cha ba nhát như ngài đã yêu cầu. Ðầu và mình của vị tử đạo bị ném xuống sông. Có hai người lính thấm máu vị tử đạo liền bị tống giam. Ðồ đạc sách vở của Ðức Cha đều bị đốt.
Ðó là ngày 20 tháng 7, 1857. Trước đó hai tháng, Ðức Cha đã viết thư tạm biệt Ðức Giám Mục và các linh mục trong Giáo Phận. Từ nhà ngục tỉnh Nam Ðịnh ngày 28 tháng 5,1857, Ðức Cha An viết:
“Tù nhân trong Chúa gửi lời tạm biệt Ðức Cha và các cha cho tới ngày gặp nhau trên trời. Xin tất cả anh em tha thứ cho những điều lầm lỗi và gương xấu tôi đã làm… Gông xiềng tôi đang mang được coi là những báu vật Ðức Giêsu gửi cho tôi. Tôi vui mừng lắm và chỉ ước ao đổ máu vì Chúa, để máu tôi hoà với máu cực thánh Ðức Giêsu rửa linh hồn tôi được sạch mọi tội lỗi. Xin anh em cầu cho tôi vững tin đến cùng…”
Giuse Diaz Sanjurjo cất tiếng chào đời ngày 26 tháng 10, 1818 tại tỉnh Lugo nước Tây Ban Nha. Cậu là con cả trong gia đình có năm anh em mà một người sau là nữ tu Antonia. Lớn lên cậu theo học chủng viện Lugo. Chiến tranh khiến việc học của cậu bị gián đoạn ba năm nhưng sau được vào đại học, cậu đã tìm đến với tỉnh dòng Ða Minh Rất Thánh Mân Côi là tỉnh dòng đặc trách lo việc truyền giáo tại Viễn Ðông. Ở đây cậu đã lần lượt được nhận vào Tập Viện ngày 23 tháng 9, 1842; được tuyên khấn 24.9.1843. Cha Giuse Diaz Sanjurjo đến địa phận Ðông Ðàng Ngoài ngày 19.9.1845 với tên Việt Nam là An. Sau thời gian học tiếng Việt, cha An được giao nhiệm vụ coi sóc chủng viện tại Nam An.
Dưới thời vua Tự Ðức cấm đạo gắt gao năm 1848, cha An đã phải đau lòng gấp rút giải tán chủng sinh, chôn giấu các đồ thờ phượng và nhìn chủng viện bị tàn phá. Trong thư gởi một bạn ở Tây Ban Nha, cha An viết: “Chúng tôi chẳng còn nhà, chẳng còn sách vở và áo quần, chẳng còn gì nữa… nhưng chúng tôi vẫn an tâm vì nhớ lời Thầy Chí Thánh nói “Con Người không có chỗ gối đầu…”
Nhiệt thành với tương lai giáo phận, cha An tái lập chủng viện tại Cao Xá. Thời gian này cha biên soạn cuốn văn phạm La ngữ bằng tiếng Việt.
Qua tông thư đề ngày 05.09.1848, Ðức Piô IX thiết lập giáo phận Trung tách khỏi giáo phận Ðông Ðàng Ngoài. Giáo phận Trung gồm cả Bùi Chu và Thái Bình hiện nay, với dân số khi ấy là 140.000 giáo hữu rải rác trên 624 giáo xứ.
Người có công thuyết phục linh mục Marti Gia nhận chức vụ giám mục giáo phận mới thành lập chính là cha An. Trong bầu khí trao đổi thân tình, cha An đã phân tích các mặt của nhiệm vụ giám mục với những khó khăn trong thời cấm đạo. Kế đến cha nêu những nhu cầu của cộng đoàn dân Chúa mà vai trò phục vụ được giao cần phải đáp ứng. Cha An không ngờ sắc lệnh bổ nhiệm Ðức Cha Marti Gia làm giám mục giáo phận Trung Ðàng Ngoài, có ban quyền chọn giám mục phó. Ðức Cha Gia liền chọn người đã thuyết phục mình nhận chức giám mục bản quyền, là cha An, làm giám mục phó.
Sau khi thụ phong giám mục, cha An lại trở về Cao Xá tiếp tục coi sóc chủng viện. Trong thư gởi gia đình, đức tân giám mục viết: “Ở đây thì chức vụ cao chỉ thêm công việc, con thường phải đi bộ, có khi phải đi chân không, nhiều lần phải lội bùn đến đầu gối, để trốn tránh những người lùng bắt.”
Tháng 3, 1850, Ðức Cha An giao chủng viện cho cha San Pedro Xuyên coi sóc rồi đi kinh lý toàn tỉnh Hưng Yên. Cuộc kinh lý bị bỏ dở. Hai linh mục Việt Nam cùng đi với Ðức Cha bị bắt. Ðức Cha thoát nạn nhưng về bị sốt rét nặng một thời gian. Hai năm sau, Ðức Cha Marti Gia lâm bệnh nặng và qua đời tại Hương Cảng ngày 26.4.1852. Thế là Ðức Cha An phải đến ở toà giám mục Bùi Chu để điều khiển công việc giáo phận mà mũi nhọn là công cuộc truyền giáo. Số người được chịu phép rửa tội năm 1852 lên tới 28.355 người. Ðức Cha An viết: “Ðó quả là phần thưởng đầy khích lệ để các nhà truyền giáo tiếp tục trách nhiệm tông đồ bất chấp âm mưu của thần dữ. Không nản lòng trước những cơ cực thiếu thốn, trước nguy hiểm vây quanh và những nghịch cảnh có thể xảy đến…”
Xảy ra là từ năm 1854, tại miền Bắc có giặc châu chấu của Lê Duy Cự và Cao Bá Quát. Họ kêu gọi người công giáo tham gia nhưng Ðức Cha An lên tiếng cấm bổn đạo không được chống lại chính quyền hợp pháp. Do đó các quan chức địa phương cũng nới tay trong việc thi hành sắc lệnh cấm đạo của nhà vua. Tổng đốc Nguyễn Ðình Tuân biết chính xác trụ sở toà giám mục Bùi Chu nhưng vẫn làm ngơ. Ông còn hứa nếu bất đắc dĩ phải sai quân truy nã thì ông sai người báo trước.
Không may khi ấy có quan thượng thư từ kinh đô về Nam Ðịnh nhằm lúc có người làng Thoại Miên là Chánh Mẹo, lên tỉnh tố cáo rằng có đạo trưởng Tây tên An ở Bùi Chu. Quan Tổng đốc buộc lòng phải ra lệnh truy bắt nhưng cũng cho người đi báo tin cho toà giám mục. Tiếc rằng tin đến nơi thì Ðức Cha An đã bị bắt. Khi lính đến bao vây, Ðức Cha chạy đi ẩn náu liên tiếp ở bốn nơi. Nơi cuối cùng ở giữa bụi tre khá kín. Nhưng đúng lúc Ðức Cha ngó đầu ra để xem lính đã đi chưa thì bị phát hiện và bị bắt.
Ðức Cha An bị giải về Nam Ðịnh và bị biệt giam hai tháng trước khi có án tử hình từ kinh đô truyền chém đầu Tây dương đạo trưởng tên An. Nhưng Ðức Cha An đã không bị cưỡng bức chịu tử hình. Ngài đã vui mừng đón nhận cái chết tử đạo vì yêu mến Ðức Giêsu vị Mục Tử nhân lành. Do đó ngài đã xin được chém ba nhát mà nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của ngài để họ bền chí trong đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình.
Cuộc đời tông đồ và cái chết tử đạo của Ðức Cha An được kể vì gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của Mười Hai Tông Ðồ xưa. Mỗi giám mục đều là người kế vị các tông đồ của Ðức Giêsu. Chính Người gọi từng người môn đệ (Mc 1,16-20). Từ số các môn đệ ấy, Người tuyển chọn Nhóm Mười Hai (3,13-19) để Nhóm này ở lại bên Người hầu được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để họ trở nên những người được Ðức Giêsu sai đi như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay (6,7-13). Họ có sứ mạng khử trừ các thần ô uế (c.7), đó là điều chính yếu. Nhưng họ còn được hướng dẫn về cách ăn vận, về đồ vật nào được mang theo, về nơi nào nên ở lại, về cách xử trí khi bị khước từ Ðiều quan trọng là họ phải trở nên nhẹ nhàng cho việc di chuyển và phải đặt mình dưới sự săn sóc của Thiên Chúa.
Ðiều mà Tin Mừng Máccô gợi ý đối với các Kitô hữu xưa cũng như nay là chính họ cũng cần ở lại bên Ðức Giêsu để được Người huấn luyện. Ðức Giêsu hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi vẫn là một (Dt 13,8). Chính Người đứng đầu Giáo Hội. Người điều khiển mọi người nhờ Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh là Ðấng làm vang lên tiếng gọi của Ðức Giêsu nơi những tâm hồn quảng đại. Chúa Thánh Linh cũng là Ðấng làm cho cuộc huấn luyện các môn đệ vẫn còn tiếp tục trong Giáo Hội. Thư Do Thái nói rõ tính chất của cuộc huấn luyện đó khi nói “Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo của anh em, họ là những người làm cho anh em được nghe lời của Thiên Chúa và hãy xem cuộc đời của họ kết thúc như thế nào, để noi theo lòng tin của họ” (Dt 13,7).
Vậy bài Tin Mừng hôm nay đi đôi với cái chết tử đạo của các thánh tông đồ cũng như của các vị kế nghiệp Nhóm Mười Hai như trường hợp Ðức Cha An, phải trở nên sức mạnh củng cố ta trong đức tin và thăng tiến ta trong đức ái nhằm vinh danh Chúa hơn. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
6. Chuyện minh họa
a/ Ðóng góp
Một vị Thị trưởng mở một Lễ hội lớn và mời mọi thị dân đến dự. Phần thức ăn thì vị Thị Trưởng hứa cung cấp đầy đủ. Phần rượu thì ông kêu gọi mỗi người khi đến dự hãy mang theo một chai, đến đổ vào một thùng rất lớn rồi mọi người sẽ uống chung.
Tới ngày Lễ hội, ai nấy đều mang chai rượu mình đến đổ vào thùng. Khi mọi người đổ xong, vị Thị trưởng cầm ly đến múc từ trong thùng ra, rồi nâng ly tuyên bố “Lễ Hội chính thức bắt đầu”.
Tuy nhiên khi ông Thị Trưởng uống, thì ôi thôi chỉ toàn là nước! Bởi vì ai cũng nghĩ rằng người ta sẽ mang rượu thật đổ vào đấy, chỉ một chai nước của mình thì có làm loãng bao nhiêu đâu! Thế là Lễ Hội thất bại thê thảm, chỉ vì sự tiêu cực và ích kỷ của thị dân.
Chúa mời gọi chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài. Chúng ta hãy là những người tích cực chứ đừng tiêu cực như những thị dân trong chuyện trên. Chúng ta đừng chỉ biết nhận mà cũng hãy biết cho.
b/ Trang bị đầy đủ
Một chàng hiệp sĩ chuẩn bị làm một chuyến viễn du. Chàng tính trước tất cả mọi tình huống có thể xảy ra, để trang bị tất cả những điều cần thiết để đối phó.
Chàng mang theo một thanh gươm và một bộ áo giáp để sẵn sàng chiến đấu với quân thù. Chàng mang thêm một bình dầu chống nắng để thoa lên da phòng khi phải đi giữa trời trưa nắng gắt. Lại mang thêm một cái rìu để đốn củi đốt lên phòng lúc đi lạc ban đêm trong rừng. Chàng còn mang thêm một cái lều và rất nhiều chăn mền phòng khi gặp tiết trời trở lạnh. Lại có cả nồi niêu xoong chão để nấu nướng kẻo có lúc không gặp được quán ăn. Và chàng cũng không quên chở theo mấy bao ngũ cốc cho con ngựa vì sợ dọc đường không mua được. Và với những hành trang rất đầy đủ đó, chàng bắt đầu lên đường.
Nhưng mới đi được một khoảng thì gặp một chiếc cầu cũ kỹ lung lay. Chàng mới đi được đến giữa cầu thì chiếc cầu gãy sụp vì không chịu nổi sức nặng của mớ hành lý. Thế là anh chàng hiệp sĩ chết đuối mà không hoàn thành được cuộc hành trình đã dự định.
Khi Ðức Giêsu sai 12 tông đồ ra đi truyền giáo, Ngài căn dặn họ một mặt đừng mang nhiều hành trang, mặt khác hãy phó thác cho Chúa Quan Phòng. Muốn hành trình đi xa thì hành trang phải nhẹ nhàng. Tuy nhiên ra đi với hành trang nhẹ nhàng đòi hỏi phải có đức tin vững chắc.
c/ Chúng ta là công cụ của Chúa
Một ngày mùa đông, một người bộ hành bắt gặp một cậu bé đang ngồi ăn xin ở dạ cầu. Cậu bé vừa lạnh run vừa rất đói. Người bộ hành cảm thấy bất nhẫn nên nói với Chúa:
– Thưa Chúa, sao Chúa không làm gì hết để giúp cậu bé này?
Chúa đáp:
– Ta đã làm rồi chứ.
Người bộ hành rất ngạc nhiên trước câu trả lời ấy nên vặn lại:
– Nhưng dù Chúa có làm gì đi nữa thì xem ra chẳng có hiệu quả gì cả.
– Ta đồng ý.
– Nhân tiện, xin mạo muội hỏi Chúa một câu nữa: Chúa đã làm gì nào?
– Thì Ta đã tạo dựng nên con đó.
Chúng ta là dụng cụ Chúa dùng để lo cho người khác, và chúng ta có trách nhiệm về hạnh phúc của người khác.
d/ Ánh sáng của Chúa
Ở thành phố Dallas, bang Texas Hoa Kỳ, có một cặp vợ chồng thất nghiệp hàng ngày đi lượm những lon bia và lon nước ngọt để bán lại kiếm tiền sinh sống. Một hôm, đang khi tìm kiếm trong những thùng rác, họ gặp được một cảnh rất đau lòng, đó là một đứa bé bị cha mẹ vất bỏ và đã chết trong thùng rác. Họ báo cảnh sát để tìm cha mẹ đứa bé. Nhưng chẳng tìm ra. Cũng chẳng ai đứng ra lo chôn cất đứa bé xấu số ấy. Thế là hai vợ chồng nghèo này quyết định làm việc đó. Họ lấy hết số tiền đang có để mua một chiếc quan tài nhỏ và một bó hoa, rồi đưa tiễn đứa bé tới nơi an nghỉ cuối cùng. Có thể nói, những giọt lệ của họ trước nấm mồ của đứa bé cũng thánh thiện như những giọt lệ Ðức Giêsu đã đổ ra trước nấm mồ của Ladarô.
Ðể trở thành ánh sáng tỏa chiếu trong thế giới tối tăm này, chúng ta không cần phải có nhiều tiền, mà chỉ cần có một tấm lòng biết hướng tới người khác.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi loan báo Tin mừng. Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và Thêm sức nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cũng được sai đi để Tin mừng hóa anh chị em đồng bào chúng ta. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Hội thánh có sứ vụ loan báo Tin mừng cho mọi dân tộc mút cùng trái đất / Xin cho các giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân trong Hội thánh luôn hăng say thi hành sứ vụ Chúa đã trao phó / dầu gặp thuận lợi hay bất cứ khó khăn nào.
2. Nhiều nhà cầm quyền trên thế giới còn hạn chế cấm đoán, và bách hại các sứ giả Tin mừng của Chúa / Xin cho họ biết dẹp bỏ mọi thành kiến sai lầm / vì việc Tin mừng hóa chỉ nhằm mục đích đem lại hạnh phúc thật cho con người.
3. Chung quanh chúng ta còn rất nhiều người chưa biết Tin mừng của Chúa / còn sống trong mê tín dị đoan hoặc nô lệ vật chất / Xin cho họ sớm được nghe biết Tin mừng giải phóng của Chúa.
4. Nhiều giáo hữu trong họ đạo chúng ta còn dửng dưng và chẳng quan tâm gì đến nhiệm vụ truyền giáo / Xin Chúa cho họ biết cầu nguyện và góp công góp của cho việc truyền giáo của Hội thánh.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho mọi Kitô hữu chúng con biết nghe theo lệnh truyền của Chúa, để sẵn sàng cộng tác bằng bất cứ cách nào có thể, cho mọi người được nghe biết và đón nhận Tin mừng của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Khi cùng với Ðức Giêsu dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha trên trời, chúng ta hãy đặc biệt xin cho Nước Cha trị đến.
VII. Giải tán
– Thánh lễ đã xong. Ðây là lúc Chúa sai chúng ta đi. Chúng ta hãy mang tinh thần Tin Mừng của Chúa đến cho tất cả mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ trong tuần này.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể!
Khi sai các tông đồ đi giảng dạy, Chúa đã căn dặn các ngài về hành trang của người tông đồ: Phải có tinh thần đơn sơ và từ bỏ những gì gây cản trở sứ mệnh.
Mỗi Thánh lễ là một bài sai, mỗi bài Phúc Âm là một sứ điệp Chúa gởi cho con. Con cũng có trách nhiệm trong chương trình cứu rỗi của Chúa là loan báo tình thương Chúa cho người khác.
Xin đừng để con phải thất vọng, ngã lòng vì những đau khổ thử thách đang đè nặng trên vai con, nhưng cho con được nghiệm thấy tình Chúa yêu thương, và được lớn lên trong niềm tin tưởng phó thác.
Xin cho con đừng bao giờ cậy sức riêng mình hay sức người đời, nhưng chỉ tin tưởng vào quyền năng Chúa để chu toàn sứ vụ Người đã trao ban.
Ước gì nước Chúa được rộng mở, mọi người tìm được hạnh phúc. Amen.
Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái