

Tuyên bố gần đây của Vatican về trí tuệ nhân tạo, Antiqua et nova, là một đóng góp mới quan trọng cho tư tưởng xã hội Công giáo. Văn kiện được công bố chung bởi Bộ Giáo lý Đức tin và Bộ Văn hóa và Giáo dục, được phê chuẩn bởi Đức Giáo hoàng Phanxicô, mang tiêu đề “Lưu ý về Mối tương quan giữa Trí tuệ nhân tạo và Trí tuệ con người”. Trong khi truyền thông toàn cầu tập trung vào lời kêu gọi của văn kiện về việc giám sát đạo đức và quản lý hiệu quả đối với AI trong nhiều lĩnh vực từ lao động, giáo dục đến đến chiến tranh, thì phần lớn Antiqua et nova là một suy tư sâu rộng về những hệ lụy mang tính nhân học và đạo đức của cuộc cách mạng AI. Với tiêu đề gợi lại thông điệp Rerum Novarum năm 1891 của Đức Lêô XIII, vốn khai mở học thuyết xã hội Công giáo hiện đại, Antiqua et nova đưa Giáo hội bước vào đối thoại toàn diện với công nghệ mang tính biến đổi của thời đại chúng ta.
Trong khi thông điệp của Đức Lêô XIII khởi đầu với “tinh thần của sự thay đổi mang tính cách mạng” và “sự bành trướng của công nghiệp cùng những phát minh kỳ diệu của khoa học” nhưng nó lại không bao gồm bất cứ suy tư gì về công nghệ. Thông điệp xã hội quan trọng tiếp theo, Quadragesimo anno năm 1931 của Đức Giáo hoàng Piô XI, cũng đã ghi nhận “sự lan rộng của nền công nghiệp hiện đại trên toàn thế giới” và ảnh hưởng sâu rộng của nó đối với đời sống kinh tế và xã hội, nhưng vẫn chưa gắn kết công nghệ với giáo huấn Giáo hội. Đức Piô XII là vị giáo hoàng đầu tiên đã thực hiện điều này. Trong sứ điệp Giáng Sinh năm 1953, ngài cảnh báo về “sự đề cao quá mức, và đôi khi độc tôn, đối với cái gọi là ‘tiến bộ công nghệ’”, vốn tìm cách thay thế “mọi lý tưởng tôn giáo và tinh thần”. Tuy nhiên, ngài không chống công nghệ; trái lại, ngài nhấn mạnh: “Không thể phủ nhận rằng tiến bộ công nghệ đến từ Thiên Chúa, và do đó nó có thể và phải hướng dẫn con người đến cùng Thiên Chúa”. Song ngài phê phán “tinh thần công nghệ” đang lan tràn trong nền kinh tế và xã hội, một tinh thần vốn “chỉ công nhận và coi là thực những gì có thể được diễn đạt bằng những công thức toán học và những tính toán thực dụng”.
Những cuộc tranh luận tại Công đồng Vatican II xoay quanh Gaudium et spes, Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới ngày nay (1965), đã đề cập đến mối tương quan giữa công nghệ và những nguyên tắc cốt lõi của học thuyết xã hội Công giáo, bao gồm phẩm giá con người và công ích. Cuối cùng, một âm hưởng lạc quan đã chiếm ưu thế: bản văn cuối cùng của Hiến chế Gaudium et spes ca ngợi những tiến bộ trong khoa học, y học, giao thông và truyền thông như là một sự tiến bộ của nhân loại. Tuy nhiên, trong khi ca ngợi “sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng” được thúc đẩy bởi “những tiến bộ kỹ thuật hiện đại” mang lại, Công đồng cũng cảnh báo rằng công nghệ không được thay thế các kết nối mang tính nhân sinh “ở mức độ sâu sắc hơn của các mối tương quan liên vị”, vốn đòi hỏi “sự tôn trọng lẫn nhau đối với phẩm giá tinh thần trọn vẹn của con người”. Để bảo đảm xã hội công bằng trong tương lai, “văn hóa và đạo đức tôn giáo” cần phải “sánh bước với tri thức khoa học và công nghệ không ngừng tiến triển”.
Trong nhiều thập niên sau Công đồng, Vatican chậm bước trước cuộc cách mạng máy tính. Trong khi Đức Phaolô VI, Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđictô XVI thường xuyên cảnh báo về những nguy cơ của chủ nghĩa kỹ trị, lặp lại mối quan ngại của Đức Piô về “tinh thần công nghệ”, các ngài chưa đưa ra suy tư mang tính hệ thống về kỷ nguyên kỹ thuật số được mở ra bởi sự phát minh ra bộ vi xử lý, máy tính cá nhân và Internet. Thông điệp Caritas in veritate năm 2009 của Đức Bênêđictô XVI là một khai triển sâu sắc nhất. Với tư cách thần học gia tham dự Công đồng Vatican II, Joseph Ratzinger từng phê bình sự lạc quan công nghệ của Hiến chế Gaudium et spes. Trên cương vị giáo hoàng, ngài ghi nhận tiến bộ công nghệ “hoa trái sáng tạo của con người được sử dụng như một công cụ cho tự do cá nhân”. Đồng thời, ngài cảnh báo về những hệ quả phi nhân tính tiềm ẩn của nó. “Ngay cả khi chúng ta làm việc thông qua vệ tinh hoặc tín hiệu điện tử từ xa, thì hành động của chúng ta vẫn luôn là hành vi nhân loại, một biểu hiện cho tự do có trách nhiệm”. Cũng như Đức Piô XII, ngài khẳng định rằng sự say mê công nghệ không được làm sao lãng “các chiều kích phi vật chất và tinh thần của đời sống”.
Trong những năm trước Antiqua et nova, Đức Thánh cha Phanxicô thường xuyên đề cập đến những đột phá AI diễn ra trong suốt triều giáo hoàng của ngài. Chẳng hạn, năm 2020, ngài hoan nghênh Rome Call for AI Ethics (Lời kêu gọi của Roma về Đạo đức AI)do Học viện Giáo hoàng về Sự sống tổ chức. Ngài phát biểu tại hội nghị của Học viện rằng “Không đủ nếu đơn giản chỉ tin vào cảm thức đạo đức của các nhà nghiên cứu và phát triển thuật toán,” cần phải kiến tạo những cơ chế xã hội trung gian, có khả năng tích hợp và phản ánh cảm thức đạo đức của những người dùng và các nhà giáo dục”. Sau khi ChatGPT được phổ biến công khai vào mùa thu năm 2022 và sự bùng nổ của các mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs) sau đó, các can thiệp công khai của Đức Phanxicô ngày càng thường xuyên hơn. Ví dụ, trong sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình tháng 1/2024, ngài cảnh báo về những hệ lụy của AI đối với “nạn phân biệt đối xử, can thiệp vào tiến trình bầu cử, thiết lập xã hội giám sát, loại trừ kỹ thuật số và làm trầm trọng thêm tình trạng cá nhân ngày càng mất kết nối với xã hội”, cũng như những mối đe dọa đến hòa bình do các hệ thống vũ khí tự động gây ra. Lặp lại lời phê phán sâu rộng của ngài về “mô hình kỹ trị” trong thông điệp Laudato si’ (2015), Đức Phanxicô khẳng định rằng thước đo của AI phải là tác động của nó đối với phẩm giá con người và công ích, được hiểu là lợi ích của tất cả mọi người, nhất là những người ở bên lề xã hội.
Mệnh lệnh bảo vệ phẩm giá con người, nền tảng của học thuyết xã hội Công giáo, là cốt lõi của Antiqua et nova. Dù phần lớn bản văn đề cập đến các vấn đề chính sách—bao gồm những nguy cơ do thông tin sai lệch, dữ liệu thiên lệch và sự thiếu giám sát của con người đối với AI trong các lĩnh vực từ y tế, giáo dục đến kinh tế và an ninh—thì đóng góp trung tâm của văn kiện là sự phân biệt rõ ràng giữa trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người. Thông qua phân tích kỹ lưỡng về sự khác biệt giữa con người và máy móc, văn kiện nhằm xoa dịu cả niềm hy vọng lẫn nỗi sợ hãi về khả năng đạt tới trí tuệ nhân tạo tổng quát (AGI) ngang tầm con người trong tương lai có thể dự đoán. Văn kiện khẳng định rằng có một vực thẳm rất lớn giữa trí thông minh do Thiên Chúa ban cho con người, với tất cả sự phức tạp của nó, và ngay cả công nghệ AI tiên tiến nhất. Máy móc không bao giờ có thể trở thành những cộng sự thực sự, chứ đừng nói đến bạn đồng hành. Bất chấp mọi lời sự cường điệu, chúng vẫn chỉ là công cụ của con người.
Lập luận trong Antiqua et nova về sự phân biệt mạnh mẽ giữa trí tuệ con người và máy móc có ba thành phần chính, mỗi thành phần đều có nền tảng triết học và thần học. Thành phần thứ nhất là một định nghĩa rộng về trí tuệ, vượt lên trên sự tính toán để bao gồm “ý chí, tình yêu, sự lựa chọn và khát vọng”, những năng lực mà máy móc vô hồn, không có sự tự nhận thức, không và sẽ không bao giờ có được. Thành phần thứ hai là tính hiện thân của trí tuệ con người. Con người vừa là tinh thần vừa là vật chất, không phải “hai bản tính kết hợp lại” mà là một sự hợp nhất “tạo thành một bản tính duy nhất”—một bản tính khác biệt về chất so với sự kết hợp giữa phần mềm và phần cứng, ngay cả trong những robot tiên tiến nhất. Thành phần thứ ba, liên quan, là tính tương quan của trí tuệ con người. Thành phần này “không phải là một khả năng biệt lập” mà là khả năng “được thực thi trong các mối tương quan, tìm thấy sự biểu đạt đầy đủ nhất trong đối thoại, cộng tác và tình liên đới”. Tính tương quan đó mở rộng đến sự chăm sóc toàn thể tạo thành và khát vọng nhận biết Thiên Chúa. Trí tuệ con người—có khả năng tự phản tỉnh, hiện thân và mang tính tương quan—sau cùng được định hướng về Chân lý. AI, chỉ là cái bóng mờ nhạt, chỉ đơn thuần là những phép toán logic dựa trên dữ liệu.
Nhiều tài liệu tham khảo về triết học và thần học Công giáo trong Antiqua et nova rất phù hợp với đối tượng chính của bản ghi chú: những người “được giao phó truyền tải đức tin“. Nhưng tham chiếu này cũng là một sự phản bác hữu hiệu với thế giới quan duy vật và giản lược vốn thống trị phần lớn các suy đoán về cuộc truy tìm trí tuệ nhân tạo tổng quát (AGI). Quan niệm cho rằng trí tuệ con người chỉ đơn thuần xuất phát từ các hoạt động vật lý của não bộ là một đề mục đức tin, một xác tín rằng kinh nghiệm con người, bao gồm cả những huyền nhiệm của ý chí tự do và ý thức, cuối cùng sẽ có thể được giải thích bằng các thuật ngữ vật chất. Niềm tin liên quan rằng máy tính có thể trở nên có ý thức – rằng số lượng, tốc độ và cấu hình vận hành của chúng có thể bằng cách nào đó tạo ra bước nhảy vọt về chất đến tự nhận thức – cũng là một đề mục đức tin mà không có bất kỳ nền tảng thực nghiệm vững chắc nào. Trong khi đó, như Antiqua et nova khẳng định, thật sai lầm khi gợi ý rằng máy móc vận hành tự do theo mô hình của con người. Tất cả những gì chúng làm là xử lý dữ liệu và tạo ra kết quả. Chúng là công cụ, không phải là những tác nhân độc lập. Nếu một ngày nào đó trải nghiệm về ý thức và ý chí tự do được quy giản thành các nguyên nhân vật chất và có thể tái tạo trong máy móc thì khoảng cách giữa trí tuệ con người và máy móc có thể sẽ thu hẹp lại. Nhưng trong khi chờ đợi, khẳng định của Kitô giáo rằng chúng ta vừa là hữu thể thiêng liêng vừa là hữu thể vật chất, khác biệt với máy móc nhờ ý thức và ý chí tự do, vẫn hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ khoa học tốt nhất.
Trong khi Antiqua et nova đặt ra nghi ngờ cách thuyết phục về triển vọng của AGI thực sự ở cấp độ ngang tầm con người, văn kiện chưa hoàn toàn giải quyết được khả năng ngày càng lớn của công nghệ trong việc mô phỏng trí tuệ con người trong toàn bộ sự phức tạp của nó. Từ khi bùng nổ, các mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs) đã trở nên ngày càng tốt hơn trong việc mô phỏng những giao tiếp của con người qua việc lựa chọn ngôn từ, nhịp điệu lời nói và giọng điệu cá nhân. Trong những năm tới, khi các tác nhân AI có quyền truy cập vào nhiều dữ liệu cá nhân hơn – từ tin nhắn và những bài đăng trực tuyến đến lựa chọn của người tiêu dùng và lịch sử vị trí -và trở nên thành thạo hơn trong việc đọc và phản hồi cảm xúc của con người, chúng có khả năng mang dáng dấp của những người thông minh, biết quan tâm. Khi LLMs tiên tiến được tích hợp vào robot được thiết kế mang hình dáng sinh vật sống, khuynh hướng nhân cách hóa cái phi nhân loại—điều đã được minh chứng rõ ràng trong trường hợp những thú cưng – có thể khiến chúng thành những người bạn đồng hành, và trong một số trường hợp, chúng là những người bạn đáng tin cậy. Một thế giới mới của sự thân mật giả tạo của AI có thể đang mở ra, với những hệ lụy sâu rộng đến xã hội.
Antiqua et nova thừa nhận viễn cảnh này nhưng không tỏ ra lo ngại. Trong phần “AI và các mối tương quan của con người”, văn kiện khẳng định “AI có thể mô phỏng sự đồng cảm,” nhưng nhấn mạnh rằng “nó không thể sao chép bản chất cá vị và tương quan sâu sắc của sự đồng cảm đích thực”. Tuyên bố này có vẻ đúng ở thời điểm hiện tại; nhưng liệu nó có đúng trong tương lai hay không thì vẫn còn là điều chưa chắc chắn. Các tác giả đã đúng khi nhắc nhở chúng ta rằng “AI chỉ là sự phản chiếu nhạt nhòa của nhân loại—nó được chế tác bởi trí óc con người, được huấn luyện trên dữ liệu do con người tạo ra, vận hành nhờ tác động của con người, và được duy trì thông qua lao động của con người”. Tuy nhiên, đồng thời, chính khả năng ngày càng phát triển của AI trong việc mô phỏng trí tuệ con người và xây dựng kết nối giống con người đánh dấu một bước ngoặt lịch sử. Kể từ thời Đức Piô XII, các đức giáo hoàng đã cảnh báo về khả năng công nghệ có thể phá vỡ và làm biến dạng các mối tương quan liên vị – từ radio, truyền hình đến internet và mạng xã hội. Với những bước tiến nhanh chóng của AI, nguy cơ tiềm ẩn ấy đã tăng đã tăng lên đáng kể.
Nhiệm vụ trước mắt sẽ vừa là duy trì sự toàn vẹn của các mối tương quan nhân sinh vừa là xây dựng các mối tương quan cộng tác giữa con người và AI vì công ích. Antiqua et nova nhắc nhở chúng ta rằng “thay vì rút lui vào những thế giới nhân tạo, chúng ta được mời gọi dấn thân cách ý thức và tận tụy với thực tại, đặc biệt qua việc liên đới với người nghèo và người đau khổ, an ủi những ai đang đau buồn, và kiến tạo mối dây hiệp thông với mọi người”. Một AI được giám sát về mặt đạo đức và quản lý đúng đắn có thể góp phần củng cố các nỗ lực bảo vệ phẩm giá con người và xây dựng những xã hội công bằng và bao dung hơn. Song song đó, những “thế giới nhân tạo” tất yếu nảy sinh từ tương tác giữa con người – máy móc cũng cần được kiểm soát, nhất là với tác động tâm lý và xã hội trên giới trẻ. Trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người chắc chắn sẽ vẫn khác biệt về mặt chất lượng. Trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người sẽ luôn khác biệt về bản chất. Nhưng chính sự giao thoa của chúng sẽ đề ra những thách đố mới cho Giáo hội và thế giới.
Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Nguồn: commonwealmagazine.org
Để lại một phản hồi