Có rất nhiều những từ ngữ khi nói ra hoặc đọc lên, là ngay lập tức người ta liên tưởng đến sự linh thánh, thiêng liêng, cũng như chứa đựng nơi đó cả một kho tàng giáo dục về những giá trị đạo đức đã ăn sâu vào tiềm thức, ký ức và nhận thức nơi mỗi người.
Chẳng hạn như: Thiên Chúa, tình yêu, gia đình, sự sống, hôn nhân, hy sinh, quảng đại, cha mẹ, quê hương, đất nước…
Một trong số những từ ngữ đó, thì ngày nay hai từ hôn nhân đang bị bóp méo và cố tình diễn tả một cách sai lệch, cụ thể là vấn đề hôn nhân đồng tính. Bắt đầu từ Hà Lan, vào tháng 12 năm 2000, Quốc hội Hà Lan công nhận hôn nhân đồng tính và quyết định này có hiệu lực từ ngày 01.04.2001. Cho đến hôm nay, chưa đầy 15 năm nhưng đã có 23 quốc gia, vùng lãnh thổ công nhận hôn nhân đồng tính. Mới đây vào ngày 26.06.2015, Mỹ là quốc gia thứ 23 công nhận hôn nhân đồng tính trên toàn nước Mỹ.
Không biết những năm sắp tới sẽ có bao nhiêu nước, tiếp tục nhìn nhận hôn nhân đồng tính một cách chính thức nữa? Chắc có lẽ thời gian không xa nữa thôi, nhiều nước lại công nhận hôn nhân đồng tính là hợp pháp trong đất nước của mình. Với thực trạng và viễn cảnh như vậy, cần phải khẳng định một cách mạnh mẽ hôn nhân là gì? Đồng thời đào sâu để giáo dục và gây ý thức một cách rộng rãi về những giá trị đạo đức truyền thống của hôn nhân, cũng như mục đích của đời sống vợ chồng. Bên cạnh đó, cần thẳng thắn, công tâm chỉ ra những sai lệnh khi gọi là hôn nhân đồng tính.
Ngay từ thuở tạo thiên lập địa, Thiên Chúa đã thiết lập một giao ước hôn nhân giữa người nam và người nữ, sách Sáng Thế thuật lại: Đức Chúa là Thiên Chúa phán: Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói: Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút ra từ đàn ông. Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt. (St 2,18.21-24)
Từ trong kho tàng Kinh Thánh cho đến truyền thống các Tông đồ, từ ngàn đời Giáo hội định nghĩa hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ thành vợ chồng trước mặt Thiên Chúa và Hội thánh, nhờ sự kết hợp bằng Bí tích Hôn Phối, Thiên Chúa chúc phúc lành và ban ơn thánh của Ngài, để đôi bạn trọn đời chung thủy yêu thương nhau và sinh sản giáo dục con cái. (x. HĐGMVN, Bản Hỏi Thưa GLHTCG số 345-346)
Như vậy, điểm cơ bản mang tính cốt lỗi của hôn nhân đó là sự kết hợp giữa hai người khác giới, và sự kết hợp khác giới này mới đón nhận được phúc lành của Thiên Chúa, sự kết hợp này là phù hợp và phải đạo với lẽ tự nhiên trong trời đất, đó là việc duy trì nòi giống, sinh sản hữu tính (giống đực và cái) ở nơi con người.
Vì thế, không thể gọi là hôn nhân được, khi sự kết hợp lại xảy ra giữa hai người đồng giới. Nghĩa là sự kết hợp đồng giới thì không được gọi là hôn nhân mà đó là tội. Gọi là tội, là bởi vì sách Sáng thế chương 19 tường thuật lại việc Thiên Chúa thiêu hủy thành Sodom, vì dân trong thành phạm tội đồng tính luyến ái, nghĩa là quan hệ tính dục đồng giới. Vậy cụm từ hôn nhân đồng tính, chẳng qua là cách hợp thức hóa hành vi tội lỗi một cách công khai, và nguy hiểm hơn là hành vi tội lỗi này lại được luật pháp của một số nước bảo vệ, khi họ nhìn nhận hôn nhân đồng tính là hợp pháp.
Ở đây cần phân biệt giữa những người đồng tính: đồng tính nam và đồng tính nữ, tạm gọi họ là những người không đảm nhận được giới tính của mình một cách rõ ràng với đời sống của những người đồng tính sống với nhau như đời sống vợ chồng. Những người không đảm nhận được giới tính của mình một cách rõ ràng, chẳng hạn như hình dáng bên ngoài là nam, nhưng tính tình, sở thích, cách ứng xử, những biểu lộ cảm xúc, hấp dẫn giới tính (chọn người phối ngẫu), thậm chí là cả về giải phẩu sinh lý… lại thuộc về nữ giới hoặc có khuynh hướng là nữ giới. Vì thế, hấp dẫn giới tính của những con người này là đàn ông, chứ không phải là phụ nữ. Họ được gọi là đồng tính nam: Gay.
Trái lại, hình thể bên ngoài là nữ, nhưng tính tình, sở thích, cách ứng xử, biểu lộ cảm xúc, hấp dẫn giới tính, giải phẩu sinh lý… lại thuộc về nam giới hoặc có khuynh hướng là nam giới. Vì thế, hấp dẫn giới tính của họ là phụ nữ, mà không phải là đàn ông. Họ được gọi là đồng tính nữ: Lesbian.
Ngoài ra còn có một số trường hợp ngoại thường khác, đó là những người đàn ông hoặc phụ nữ độc thân, hoặc đã có gia đình, có con cái, nhưng cũng bị hấp dẫn giới tính bởi những người đồng giới. Nghĩa là họ bị hấp dẫn giới tính bởi đồng giới và khác giới, những người này được gọi là lưỡng tính luyến ái: Bisexua.
Tự bản thân những người đồng tính (Gay, Lesbian) hoặc lưỡng giới (Bisexua) không có gì là tội lỗi. Đó chỉ là sự khiếm khuyết nơi bản thân về mặt thể lý và tâm lý, mà cho đến nay vẫn chưa có một lý giải thỏa đáng nào về tinh thần, tâm linh cho những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đồng tính luyến ái, cũng như lưỡng tính nơi những con người này. Sự khiếm khuyết đó là một thử thách trong cuộc sống đối với họ.
Vì thế, Giáo hội luôn đón nhận và khuyên con cái mình có thái độ hết sức nhân từ đối với những người đồng tính: Chúng ta phải đón nhận họ với lòng tôn trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối xử bất công. Cả những người này cũng được mời gọi thực hiện ý Chúa trong cuộc sống, và nếu họ là Kitô hữu, họ nên kết hợp với các khó khăn gặp phải do hoàn cảnh đặc biệt của mình với hy tế thập giá của Chúa. (GLHTCG số 2358)
Đồng thời với việc đón nhận, Giáo hội còn mời gọi những người đồng tính chọn đời sống khiết tịnh, tự chủ đối với những xung động nơi bản thân, cương quyết phấn đấu để được trở nên hoàn thiện nhờ vào kinh nguyện và ơn Chúa nơi các bí tích và nhất là cần được nâng đỡ của một tình bạn vô vị lợi. (x. GLHTCG số 2359). Như vậy, người đồng giới luôn được nâng đỡ và có chỗ đứng chính đáng trong lòng Giáo hội, giữa một cộng đoàn.
Tuy nhiên, Giáo hội hoàn toàn không chấp nhận các hành vi đồng tính luyến ái, vì tự bản chất nó là thác loạn, trái với tự nhiên vì nó loại bỏ chủ đích truyền sinh của hành vi tính dục, những hành vi đồng tính cũng không xuất phát từ nhu cầu bổ túc cho nhau về mặt tình cảm và tính dục, nó chỉ là sự thỏa mãn cho nhu cầu thác loạn, bệnh hoạn và sai lệch. Vì thế, những hành vi này không thể được chấp nhận trong bất cứ trường hợp nào. (x. GLHTCG số 2357)
Vậy nếu người đồng tính sống với nhau theo kiểu của đời sống hôn nhân thì đó là tội. Vì thế, khi gọi là hôn nhân đồng tính phải hiểu đó là tội lỗi, chứ không phải là một nhìn nhận cho sự tự do nơi con người, lại càng không phải là sự thể hiện tôn trọng quyền cơ bản của con người là mưu cầu hạnh phúc.
Có nhiều viện dẫn, cần phải viết lại định nghĩa về hôn nhân: Hôn nhân không còn là bổ túc cho nhau và truyền sinh nữa, nhưng hôn nhân là để kết nối hai con người xa lạ trong cuộc sống thành một gia đình trên nền tảng hạnh phúc và tôn trọng luật pháp. Điều này hoàn toàn sai trái, vì không thể lấy một thiểu số người đồng tính trong cả một cộng đồng nhân loại, mà quy gán cho toàn thể loài người được. Không thể lấy cá thể áp đặt cho toàn thể, không thể lấy sự khiếm khuyết mà đặt thành quy luật cho tự nhiên, và nhất là không thể lấy những ý tưởng suy đồi mà điều chỉnh, sửa đổi những định chế về hôn nhân đã được Thiên Chúa thiết lập từ ngàn đời.
Vậy khi bạn nghe đâu đó về cụm từ hôn nhân đồng tính, hoặc là những phát biểu, những quan điểm bảo vệ, bênh vực cho cụm từ này, thì phải hiểu rằng đó là tội lỗi, mà không phải là lợi ích tự do chính đáng của con người được nhìn nhận.
Lm. Pet. Trần Trọng Khương