“Thời gian sẽ cho thấy chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô có thực sự làm thay đổi nước Mỹ hay không.”
ROMA – Dù theo bất kỳ tiêu chuẩn hợp lý nào, chuyến viếng thăm đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô (ĐTC) đến Hoa Kỳ, từ 22 đến 27-9-2015, cũng được đánh giá trước mắt là một thành công lớn.
ĐTC đã chinh phục các đám đông dân chúng ở khắp mọi nơi ngài đã đi qua, từ việc ngài chủ sự Thánh lễ ngoài trời bên ngoài Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Washington, hay đi dọc theo Central Park trước 80.000 người dân New York trên đường đến dâng Thánh lễ tại Madison Square Garden, hoặc cuốn hút hàng trăm ngàn người nhiệt tình dự lễ ở Benjamin Franklin Parkway của Thành phố Philadelphia.
Tin tức về “Đức Thánh Cha của công chúng” đã tràn ngập các phương tiện truyền thông, và trong một nước Mỹ bị phân cực cách tệ hại vì mùa tranh cử tổng thống 2016 đang diễn ra, ĐTC đã tránh được những khuấy động tranh cãi chính trị cho dù các bài thuyết trình và cử chỉ của ngài vẫn có nội dung chính trị rất phong phú.
Tuy chỉ là một phỏng đoán ở giai đoạn này, các cuộc thăm dò sau sự kiện cho thấy rằng, hầu hết người Mỹ, từng có cảm tình với một giáo hoàng ở chốn xa xôi, nay còn yêu mến ngài hơn rất nhiều khi tận mắt trông thấy ngài cận kề.
Tuy nhiên, thật ra mà nói, hầu như cũng có thể đánh giá như thế về chín chuyến tông du đến Hoa Kỳ của các vị giáo hoàng trước đó (một chuyến của ĐTC Phaolô VI, bảy chuyến của ĐTC Gioan Phaolô II, và một chuyến của ĐTC Bênêđictô XVI). Thảng hoặc cũng một lần hơi khác, nhưng nói chung những chuyến tông du đó đều diễn ra tốt đẹp để giới thiệu được những nét đẹp của các giáo hoàng.
Phải chờ thời gian mới đánh giá được tác động lâu dài của một chuyến đi, một phần vì nó không chỉ phụ thuộc vào những gì ĐTC đã nói và làm trong khi ngài còn ở đây, mà còn tuỳ thuộc vào cách những người nghe giáo hoàng nói sẽ đáp ứng ra sao sau khi ngài đã về Vatican.
Kinh nghiệm dạy rằng khi các vị giáo hoàng lên đường, thông điệp của các ngài được soạn để tiếp cận được nhiều dạng cử toạ khác nhau, và trong trường hợp của chuyến tông du này, ĐTC nhắm ngỏ lời với nhiều giới khác nhau:
• Ngỏ lời với toàn thế giới, trong ánh sáng của bài diễn văn nói với Liên Hiệp Quốc vào ngày 25-9.
• Ngỏ lời với nhân dân Hoa Kỳ, đặc biệt trong diễn văn tại Lưỡng viện Quốc hội Mỹ và buổi nói chuyện tại Hội trường Độc lập của Philadelphia.
• Ngỏ lời với tín đồ các tôn giáo khác, tại thời điểm quan trọng trong nghi thức liên tôn ở Đài Tưởng niệm 11-9 của New York.
• Ngỏ lời với Giáo hội Công giáo địa phương, bao gồm cả tầng lớp lãnh đạo, có thể nói là đại diện cho cơ sở của giáo hoàng.
Chuyến tông du đã tác động trên các nhóm người nghe này như thế nào? Trong khi còn quá sớm để trả lời cho câu hỏi này, ít nhất người ta cũng có thể phác hoạ các vấn đề đã được đưa ra.
Ngỏ lời với thế giới
Trước một hội nghị có lẽ lớn nhất của các nhà lãnh đạo thế giới trong lịch sử Liên Hiệp Quốc, ĐTC đã liệt kê một danh sách dài các vấn đề mà ngài cảm thấy đáng quan tâm, bao gồm cả những nguyên nhân: nghèo đói, chiến tranh và buôn bán vũ khí, những người nhập cư và người tị nạn, nạn buôn người…
Ở một mức độ nhất định, ĐTC đã đưa ra được một phép thử để thấy thông điệp của ngài có tác động như thế nào: đó là Hội nghị thượng đỉnh về Biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc tại Paris từ ngày 30-11 đến ngày 11-12 sắp tới, xem thử Hội nghị này có chấp nhận “sự lựa chọn dũng cảm” mà ĐTC đã kêu gọi hay không.
Cũng thế, ngay lúc này, một phép thử khác cho thấy những lời nói của ĐTC tác động như thế nào trong tuần vừa qua, đó là liệu các nhà hoạch định chính sách của châu Âu có thái độ hào phóng hay không đối với khoảng nửa triệu người tị nạn đã vượt biển Địa Trung Hải để đến lục địa này trong năm nay.
Hungary đã xây dựng một hàng rào dọc biên giới với Serbia và hiện đang xây dựng một hàng rào khác dọc theo biên giới với Croatia, trong nỗ lực giữ những người tị nạn ở lại tại vịnh. ĐTC xem đây là một phản ứng sai lạc, đó là ý nghĩa lời bình luận của ngài trên chuyến bay vào Chúa nhật rằng “tất cả các bức tường phải sụp đổ… trong ngày hôm nay, ngày mai, hoặc sau 100 năm nữa”.
ĐTC nói: Hãy bắc những cây cầu chứ đừng xây những bức tường. Từ đấy, tác động toàn cầu của Giáo hoàng có thể được nhận thấy rõ nhất trong tư cách là một sứ giả hòa bình. Ngài đã giúp mở đường cho việc bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Cuba, và trên chuyến bay vào ngày Chúa nhật, ngài tiết lộ rằng ngài quan tâm đến việc xây dựng một thỏa thuận để kết thúc cuộc nội chiến lâu năm của Colombia, bằng cách nói chuyện riêng với Tổng thống Colombia Juan Manuel Santos về các cuộc đàm phán hòa bình đang diễn ra tại La Habana.
Tháng tới, ĐTC sẽ đi thăm Cộng hòa Trung Phi, nơi mà một chính phủ lâm thời được LHQ hậu thuẫn đang phải vất vả để duy trì một nền hòa bình mong manh. ĐTC có một cơ hội đặc biệt ở đó, vì yếu tố chính yếu đang đe dọa dìm đất nước này trở lại cuộc chiến tranh chính là lực lượng dân quân Kitô giáo đang thường xuyên tiến hành cuộc trả thù chống lại người Hồi giáo. Sẽ khó khăn hơn đối với những băng nhóm vũ trang này khi họ muốn khẳng định rằng họ đang hành động nhân danh Kitô giáo nếu Đức Giáo Hoàng đến thị trấn và yêu cầu họ dừng tay.
ĐTC Gioan Phaolô II đã góp phần chấm dứt chiến tranh lạnh. Còn ĐTC Phanxicô thì nói rằng ngày nay chúng ta đang ở giữa Chiến tranh Thế giới thứ ba, đang diễn ra từng phần ở các điểm nóng khác nhau. Có lẽ ngài có thể đóng vai trò chuyển hóa tương tự như vị tiền nhiệm Ba Lan của ngài, bằng cách tham gia ngoại giao từng phần. Nếu như thế, người Mỹ sẽ nhớ rằng ngài đã đưa ra kiểu mẫu đó tại đây trong diễn văn ở Liên Hiệp Quốc.
Ngỏ lời với dân tộc Mỹ
Về thông điệp muốn gửi đến dân tộc Mỹ, ĐTC Phanxicô đã gửi thông điệp này trong ba diễn văn nền tảng: bài phát biểu nói với Tổng thống Barack Obama trên Bãi cỏ phía Nam của Nhà Trắng vào ngày 23-9, bài phát biểu tại Lưỡng viện Quốc hội vào ngày 24-9, và diễn văn tại Hội trường Độc lập ở Philadelphia vào ngày 26-9.
Đặt ba diễn văn này bên nhau, sẽ thấy nổi lên một chương trình mang tính chính trị, xã hội, và đối nghịch văn hoá cách sâu sắc dành cho Hoa Kỳ.
Một mặt, rõ ràng là ĐTC có lập trường giống cánh tả tại Hoa Kỳ về một loạt các chủ đề, đặc biệt là cải cách nhập cư, án tử hình, và những nỗ lực chống đói nghèo. Ngài liên tục nhận mình là “con của người nhập cư” và nhắc nhở Hoa Kỳ rằng nước này phần lớn được xây dựng nhờ công sức của các thế hệ cộng đồng người nhập cư. Tất cả những điều này đều dẫn đến từ ý kiến bảo vệ môi trường của ĐTC, bao gồm cả lời mạnh mẽ kêu gọi hành động để giảm bớt hiện tượng trái đất nóng dần lên.
Tuy nhiên, về các vấn đề khác, ĐTC lại rõ ràng có lập trường giống với lập trường văn hóa và chính trị của cánh hữu hơn. ĐTC nói với các giám mục Hoa Kỳ rằng: “Tôi đánh giá cao những dấn thân không mệt mỏi của Giáo Hội Mỹ cho sự sống và gia đình” và ngài kêu gọi Quốc hội “bảo vệ sự sống của con người ở mọi giai đoạn phát triển của nó”; cả hai đã xác định rõ ràng mục tiêu phò sự sống.
ĐTC đã bất ngờ đến thăm các Nữ tu Nhỏ Của Người Nghèo ở Washington, rõ ràng ngài ủng hộ các nữ tu trong các vụ kiện chống lại chính quyền Obama về việc ngừa thai. Trên chuyến bay trở về Rôma, ngài xác định quyền được theo lương tâm mà phản kháng các quan chức chính phủ về luật hôn nhân đồng tính, mặc dù ngài không trực tiếp bình luận về vụ Kim Davis, thư ký quận Kentucky, người đã từ chối cấp giấy chứng nhận cho các cặp đồng tính.
Tại một thời điểm khi đang trực tiếp tường thuật cuộc tông du của ĐTC, ký giả Jake Tapper của CNN đã đưa lên Twitter một thách đố: đố ai tìm được một chính trị gia Mỹ đồng quan điểm hoàn toàn với ĐTC. Mặc dù có vô số câu trả lời, câu trả lời cơ bản là không thể tìm được một ai như thế cả!
Tiếp theo, có lẽ cách tốt để đánh giá các tác động chính trị của chuyến tông du, không phải là liệu cánh tả và cánh hữu có đột nhiên đồng ý với nhau hay không, nhưng ít nhất là liệu phe tự do và phe bảo thủ của Hoa Kỳ có ít phỉ báng nhau hơn về các vấn đề mà ĐTC đã xác định là một phần của mối quan tâm liên tục duy nhất cho sự sống và nhân phẩm hay không. Nếu được như thế, đó sẽ là một bước đột phá lớn cho “hiệu ứng Phanxicô”.
Ngỏ lời với tín đồ các tôn giáo khác
Đài tưởng niệm Ground Zero nhắc nhớ khả năng phá hoại của chủ nghĩa cực đoan tôn giáo, và do đó đã là một khung cảnh thiên nhiên cho ĐTC trình bày các suy tư về vai trò của tôn giáo trong việc tìm kiếm hòa bình.
Đứng chung với các đại diện của đạo Do Thái, đạo Hindu, đạo Sikh, Hồi giáo, Kitô giáo và Phật giáo, ĐTC đã gọi sự liên đới này là “một dấu chỉ mạnh mẽ biểu lộ ước muốn của chúng ta là trở thành một lực lượng hòa giải, hòa bình và công lý trong cộng đồng này và trên toàn thế giới”.
Bằng những cách thức nhỏ bé, ĐTC đã góp phần xây dựng sự hòa hợp tôn giáo trong chuyến tông du của ngài.
Ví dụ, trong bài phát biểu trước Quốc hội, một trong bốn người Mỹ đã được ĐTC nêu bật là Thomas Merton, vị tu sĩ dòng Xitô nổi tiếng đã viết rất nhiều về các tôn giáo Đông phương và quan tâm sâu sắc đến Phật giáo. ĐTC là một khuôn mặt có sức hấp dẫn vượt ra ngoài ranh giới tôn giáo truyền thống của mình. Ngài cũng là một người đối thoại đáng tin cậy cho các tôn giáo không thuộc phương Tây trong tư cách là vị giáo hoàng đầu tiên đến từ thế giới đang phát triển, và rõ ràng không được xem như “tuyên úy của Nato”.
Trước hết, Ground Zero gợi nhớ về khủng bố Hồi giáo. Một số chuyên gia tin rằng Hoa Kỳ có thể là nơi thích hợp nhất để giúp Hồi giáo hội nhập với thời hiện đại, vì có đông người Hồi giáo sống ở đây và có truyền thống đa nguyên tôn giáo.
Người Công giáo Mỹ có thể đóng góp để thực hiện điều này. Cách đây không lâu, người Công giáo tại Hoa Kỳ thấy mình bị mắc kẹt giữa một nền “thần học chính thức” – từ chối việc tách ly giữa Giáo hội và dân tộc – và trải nghiệm sống động nhận ra rằng một Giáo hội “cố định” sẽ không thực sự giúp Công giáo phát triển mạnh mẽ.
Tại Công đồng Vatican II vào giữa thập niên 1960, người Công giáo Mỹ đóng vai trò chính trong việc chuyển Công giáo vào “vòng tay” của tự do tôn giáo. Có lẽ ngày nay, người Công giáo tại Hoa Kỳ có thể giúp láng giềng Hồi giáo của họ có những đóng góp tương tự cho Hồi giáo toàn cầu.
Sự thấu hiểu như vậy có thể áp dụng cho các truyền thống tôn giáo khác đang đi qua quá trình chuyển đổi tương tự, với mẫu gương được ĐTC đưa ra, trong chiều hướng đóng góp của Hoa Kỳ.
Ngỏ lời với Giáo hội địa phương
Rõ ràng là, trong những năm đầu thế kỷ 21, Giáo hội Công giáo tại Hoa Kỳ phải đối mặt với “một thời điểm tốt nhất”, đồng thời cũng là “một thời điểm tồi tệ nhất”.
Làn sóng người nhập cư, chủ yếu từ các nước châu Mỹ Latinh, đang cung cấp cho Giáo hội Mỹ một năng lực mới và một nguồn nhân sự mới. Nhưng cơ sở hiện có của Giáo hội Mỹ đang suy giảm; nghiên cứu mới nhất của Diễn đàn Giáo dân cho thấy rằng số người Công Giáo đã giảm bớt ba triệu, tính từ năm 2007, và rằng người Công giáo hiện nay chỉ chiếm 1/5, chứ không còn là 1/4 dân số Mỹ nữa. Ở một mức độ nhất định, thước đo thành công của ĐTC Phanxicô tại Mỹ sẽ là: liệu các nghiên cứu trong tương lai có cho thấy chiều hướng suy giảm này có dừng lại hay không, và liệu ĐTC có truyền được cảm hứng để các tín hữu gốc Latinh có ảnh hưởng nhiều hơn trong các vấn đề của Công giáo tại Mỹ hay không.
Ngoài ra, ĐTC đã đưa ra tầm nhìn cốt lõi cho Giáo Hội Mỹ trong bài phát biểu ngày 23-9 với các giám mục Hoa Kỳ tại Nhà thờ Thánh Matthêu tại Washington; một vốn quý mà ĐTC để lại chính là câu: “Đối thoại là phương pháp của chúng ta”. Ngài nói: “Con đường phía trước chính là cuộc đối thoại với nhau, đối thoại trong hàng ngũ giáo sĩ, đối thoại với giáo dân, đối thoại với gia đình, đối thoại với xã hội”. “Tôi có thể luôn luôn khuyến khích anh em đối thoại hoài, không sợ hãi”.
ĐTC kêu gọi các giám mục Mỹ tránh “kiểu nói khắc nghiệt và chia rẽ”. Ngài nhấn mạnh: “Kiểu nói ấy không xứng hợp với miệng lưỡi của một mục tử; nó không được phép có chỗ trong tim mục tử. Mặc dù nó có vẻ giành được chiến thắng trong giây lát, nhưng chỉ có sức hấp dẫn lâu dài của lòng nhân hậu và tình yêu mới thật sự thuyết phục”.
Do đó, một phép thử khác về tác động của chuyến tông du sẽ là: Liệu các giám mục Mỹ có đón nhận sứ điệp này trong tim mình không.
Cuối cùng, ĐTC đã gửi sứ điệp thứ hai cho các giám mục ở Philadelphia, đồng thời cũng gửi đến các giám mục từ khắp nơi trên thế giới đến tham dự Hội nghị Gia đình Thế giới. Ngài lặp lại lời mời gọi xây dựng một Giáo Hội mang tính truyền giáo nhiều hơn, nhấn mạnh rằng các mục tử nên “giải thích ít” và “làm nhiều”, có nghĩa là đưa Tin Mừng vào các hoạt động phục vụ cụ thể.
Vì vậy, phép thử cuối cùng về tác động của chuyến tông du sẽ là liệu rằng sự thay đổi từ việc “giải thích ít” đến “làm nhiều” có thấy được trong các giáo xứ và giáo phận trên toàn thế giới, bao gồm cả ở Hoa Kỳ hay không.
Về vấn đề đó, chuyến đi có thể đã giúp ĐTC thực hiện tầm nhìn của mình ở đây trong hai cách.
Đầu tiên, một cách sắc sảo, ĐTC đã cho các giám mục Mỹ thấy rằng ngài hỗ trợ họ trong những mối quan tâm cốt lõi của họ.
Trong bài phát biểu tại Nhà Trắng, ĐTC đã nhìn về phía Tổng thống Obama khi ca ngợi những “cảnh giác” của các giám mục Mỹ về tự do tôn giáo. Ngài không tiếc lời cảm ơn họ vì những nỗ lực chào đón di dân, và thậm chí còn ca tụng lòng “can đảm” của các giám mục Hoa Kỳ trong việc đối phó với vụ bê bối lạm dụng tình dục của một số giáo sĩ.
Trên chuyến bay trở lại Rôma, ĐTC tuyên bố sẽ tiếp tục thể hiện trách nhiệm của ngài đối với những giám mục “che đậy” tội lạm dụng tình dục, nhưng dường như ngài cũng muốn nói rằng đại đa số các giám mục Hoa Kỳ đã và đang làm hết sức mình trong vấn đề này. “Họ là những người của Giáo hội và của cầu nguyện; đó là các mục tử chân chính, những người đã phải chịu đựng nhiều đau khổ” ĐTC nói.
Trong ngữ cảnh đó, mọi cảm nhận mâu thuẫn – mà một số giám mục Mỹ có thể có về ĐTC trong chuyến tông du của ngài – đã có thể được giải toả, vì họ bây giờ đã có thể xem ngài như một đồng minh và một người bạn.
Thứ đến, việc đón tiếp ĐTC cách vô cùng tích cực – trong suốt chuyến tông du nước Mỹ của ngài – hẳn đã giúp các giám mục mang về nhà một sự thật không thể chối cãi: Ít nhất là từ quan điểm chính trị và PR, các giám mục Mỹ sẽ cảm thấy cần đến vị Giáo hoàng này nhiều hơn là Giáo hoàng này cần đến họ. Nói cách khác, sự thuận lợi cá nhân sẽ giúp các vị an tâm hoạt động.
Qua thời gian, ĐTC cũng sẽ có cơ hội để thúc đẩy thực hiện chương trình của ngài bằng cách mời gọi các giám mục ở đất nước này chia sẻ công việc ở tầm mức cao hơn. Cách thức ngài lựa chọn để triển khai quyền bính có thể là phép thử quan trọng để biết: liệu lực đẩy tạo ra bởi chuyến tông du này sẽ kéo dài đến đâu.
Vị giáo hoàng có những kế hoạch không hề nhỏ
Tóm lại, những điều trên cho thấy: Cần có một tiêu chuẩn hết sức cao để có thể đo lường xem liệu chuyến tông du sáu ngày ở Mỹ của ĐTC có được xem như một thành công lâu dài hay không. Tiêu chuẩn đó là:
• Kết thúc từng phần “Thế chiến thứ ba”;
• Thay đổi cách phân chia cánh tả và cánh hữu trong nền chính trị Mỹ;
• Chống chủ nghĩa cực đoan tôn giáo dựa trên kinh nghiệm của Hoa Kỳ;
• Điều hướng các giám mục của Mỹ đi theo phương pháp đối thoại và theo đường lối “làm” hơn là “giải thích”.
Đạt được dù chỉ một trong những kết quả trên đây cũng sẽ là điều kỳ diệu rồi. Và có lẽ sẽ là ảo tưởng nếu tin rằng: bất kỳ chuyến tông du nào của ĐTC, muốn thành công lớn, đều phải tức thì đạt được tất cả bốn tiêu chuẩn này.
Trong bài diễn văn trước Quốc hội, ĐTC đã đưa ra bốn người Mỹ như là hình mẫu. Tuy nhiên có một hình mẫu thứ năm mà ngài không đề cập đến. Đấy là Daniel Burnham, một người xem ra có tinh thần tương tự – ít là xét theo một phương diện quan trọng nào đó.
Daniel Burnham là một trong những kiến trúc sư vĩ đại của Mỹ và là nhà quy hoạch đô thị, đã thiết kế các thiết bị trạm xe lửa Union Station ở Washington D.C. mà ĐTC có thể đã thoáng trông thấy khi di chuyển trong thành phố.
Burnham đã từng nói một câu rất nổi tiếng: “Đừng làm những kế hoạch nhỏ, vì chúng sẽ không có phép màu để kích thích người ta và có lẽ cũng chẳng thực hiện được.”
Trong tinh thần này, ĐTC Phanxicô không phải là một vị giáo hoàng của những kế hoạch nhỏ. Khi ngài đến thăm trường Nữ Vương các Thiên Thần ở Harlem vào ngày 25-9, là trường phục vụ con em của người có thu nhập thấp và người nhập cư, có lẽ đó là thời điểm duy nhất trên đường đi ĐTC đã bộc lộ bản thân nhiều hơn hết. Với tiếng Tây Ban Nha ứng khẩu, ngài kêu gọi người trẻ hãy ước mơ.
“Thật là đẹp khi có ước mơ và có thể chiến đấu cho ước mơ này”, ngài nói. “Các con có quyền mơ ước… Bất cứ nơi nào có những giấc mơ, là có niềm vui, và Chúa Giêsu luôn luôn hiện diện ở đó”.
ĐTC đã ban huấn dụ này -một huấn dụ được đặt tên là giấc mơ, trên chuyến tông du đến Mỹ từ ngày 22 đến 27 tháng 9- đã có giá trị hơn một loạt các tấm ảnh hấp dẫn và những lời diễn thuyết cao cả. Qua thời gian, có lẽ huấn dụ này sẽ nổi lên như một yếu tố làm thay đổi tình hình thế giới và thay đổi đất nước mà ĐTC Phanxicô rõ ràng có ý muốn làm như thế.
LINH HỮU