

Dẫn nhập
Khởi đi từ tựa đề của bài viết “Gia Đình Công Giáo – Niềm Hy Vọng Cho Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng”, phải chăng vị trí của gia đình Công giáo đã được người viết đề cao quá mức? Liệu ý tưởng đó có làm giảm đi tính quan trọng của sứ mạng loan báo Tin Mừng mà Giáo hội Chúa Kitô đã, đang và vẫn còn đó những thao thức, băn khoăn cũng như những mong ước thành toàn? Liệu gia đình Công giáo có thể là dấu chỉ của “Niềm Hy Vọng” không, khi nhiều người hiện nay đang dần mất niềm tin vào tình yêu, hôn nhân và gia đình? Để giải toả những khúc mắc trên, cũng như để hiểu hơn về ý nghĩa đích thực của gia đình Công giáo trong sứ mạng của Mẹ Giáo hội, thiết nghĩ phải tìm về với Lời của Thiên Chúa và những giáo huấn được đặt nền tảng trên đó.
Chúng ta xác tín rằng sứ mạng loan báo Tin Mừng thuộc về bản chất của Giáo hội và trong đó, từng Kitô hữu có nhiệm vụ thực thi lệnh truyền của Đức Giêsu để ra đi rao truyền ơn cứu độ và tình yêu của Thiên Chúa đến cho muôn người (x. Mc 16,15). Vậy, gia đình Công giáo được ví như “Hội Thánh thu nhỏ” hoặc “Hội Thánh tại gia – Ecclesia domestica” chắc chắn không nằm ngoài sứ mạng ấy. Hơn thế nữa, một gia đình được thiết lập bởi Bí tích Hôn phối càng thể hiện rõ nét niềm hy vọng cho sứ mạng loan báo Tin Mừng qua những đặc tính, ý nghĩa và mục đích của nó. Bài viết này không hoàn toàn nhắm đến việc trình bày các quan điểm thần học nhưng còn bao hàm trong đó những suy tư thông qua một số chứng từ hoặc kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến việc các gia đình tham gia sứ mạng truyền giáo. Trước hết, chúng ta sẽ chiêm ngắm hình ảnh gia đình Công giáo như nền tảng của niềm hy vọng vào tình yêu tận hiến vĩnh cửu mà Thiên Chúa dành cho nhân loại. Tiếp đến, chúng ta nhìn nhận gia đình Công giáo chính là biểu tượng hy vọng vào sự sống mới và ơn cứu độ xuất phát từ Thiên Chúa. Cuối cùng, chúng ta suy ngẫm về vai trò của gia đình Công giáo trong việc rao giảng niềm hy vọng cho thế giới hôm nay.
1. Gia đình Công giáo – Niềm hy vọng vào tình yêu tận hiến vĩnh cửu của Thiên Chúa
Gia đình Công giáo trong ý định của Thiên Chúa tự bản chất đã mang trong mình niềm hy vọng vào tình yêu vĩnh cửu của Ngài. Qua Bí tích Hôn phối, người nam và người nữ kết hợp với nhau trong tình yêu phu phụ duy nhất và “bất khả phân ly”. Trong đó, hai người tận hiến cho nhau cả thể xác lẫn tâm hồn để trở nên “một xương một thịt” và “tình yêu hỗ tương của họ là một hình ảnh của tình yêu tuyệt đối và bất diệt Thiên Chúa dành để yêu con người.” Vì thế, chúng ta nhìn nhận rằng gia đình Công giáo, khi sống trọn vẹn ơn gọi của mình, cũng là cách chứng minh cho tình yêu thuỷ chung mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại. Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông huấn Amoris Laetitia – Niềm Vui Của Tình Yêu đã khẳng định: “Hôn nhân là một dấu chỉ quý giá, vì khi một người nam và một người nữ cử hành Bí tích Hôn phối, thì có thể nói, Thiên Chúa được ‘phản chiếu’ nơi họ, và Ngài ghi khắc trong họ những nét phác thảo đặc thù và dấu ấn tình yêu không thể xóa nhòa của Ngài. Hôn nhân là linh ảnh của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Ngay Thiên Chúa, thật vậy, cũng là hiệp thông: Ba Ngôi Vị – Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần – hằng sống từ muôn thuở cho đến muôn đời trong sự hiệp nhất hoàn hảo. Và đây chính là mầu nhiệm hôn nhân: Thiên Chúa làm cho hai vợ chồng trở thành một cuộc đời duy nhất.”
Đăc tính đơn hôn của hôn nhân Công giáo dẫn đưa người ta đến với niềm xác tín rằng bên cạnh những thói xấu của sự ích kỉ nhỏ nhoi, sự phản bội thất tín và sự gian dối phỉnh gạt luôn còn đó hình ảnh tuyệt vời của tình yêu sắt son bền vững trong cuộc sống hôm nay. Tình yêu ấy có xuất phát điểm từ Thiên Chúa và được Ngài trợ giúp để con người sống trọn vẹn ơn gọi hôn nhân gia đình. Nó cũng đòi hỏi người làm vợ làm chồng phải cam kết sống trung tín với nhau vì lợi ích của chính người phối ngẫu, của con cái họ và của xã hội.
Sự bất khả phân ly của mối dây hôn phối gắn kết hai người với nhau đến trọn đời mà không tuỳ tiện chấm dứt theo ý muốn của bất cứ cá nhân nào hoặc bởi bất kì tác động nào. Vì đặc tính đó, tình yêu vợ chồng được nhìn nhận như hình ảnh minh hoạ cho tình yêu không thay đổi của Đức Giêsu Kitô với Hội Thánh của Người. “Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh” (Ep 5,25-26). Cũng nhờ vào việc tuân hành Thánh ý: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9) mà đôi phối ngẫu đón nhận Ơn Cứu Độ vào giữa tình yêu của mình. Thiên Chúa thánh hoá và làm thăng tiến tình yêu của họ cũng như dẫn dắt họ bước đi vững vàng trong hành trình làm cha mẹ và trở thành những chứng nhân Tin Mừng qua đời sống hôn nhân.
Khi ý thức rõ ràng về bổn phận sống tình yêu chung thuỷ trong Bí tích Hôn phối và quyết tâm thi hành bổn phận ấy cách trọn hảo thì hai người đang trở nên những vị thừa sai của tình yêu Thiên Chúa giữa lòng thế giới hôm nay. Trong khi người ta cảm thấy quá khó khăn hoặc bất khả thi để gắn kết với một người duy nhất đến cuối đời thì những cặp vợ chồng Công giáo phải thực hiện một cuộc “lội ngược dòng” để khẳng định rằng: nhờ Tin, Cậy, Mến vào Thiên Chúa, chúng tôi hoàn toàn có thể sống ơn gọi “nhất phu nhất phụ” và “vĩnh hôn” dù đời sống gia đình không phải lúc nào cũng thuận lợi. Mẹ Giáo hội đã khuyến khích và nêu bật vai trò thừa sai của hôn nhân Công giáo: “Ràng buộc suốt đời mình với một người khác có thể được coi là rất khó, thậm chí là điều không thể thực hiện được. Do đó, điều hết sức quan trọng là phải loan báo Tin Mừng này: Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vĩnh viễn và không rút lại, đôi phối ngẫu được dự phần vào tình yêu đó của Thiên Chúa, một tình yêu hướng dẫn và nâng đỡ họ, và nhờ sự chung thủy với nhau, họ có thể là chứng nhân cho tình yêu trung tín của Thiên Chúa. Những đôi phối ngẫu nào, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, làm chứng được như vậy, thường là trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn, đáng được cộng đoàn Hội Thánh biết ơn và hỗ trợ.”
Quả thật, nếu cuộc sống hôn nhân luôn được trải hoa hồng và có nhiều thuận lợi thì sứ mạng loan báo Tin Mừng tình yêu của tất cả các cặp vợ chồng Công giáo đã sớm đạt đến mức hoàn hảo. Thế nhưng, song song với lý tưởng trở nên chứng nhân cho tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa, con cái Ngài gặp không ít sóng gió, trở ngại và muôn vàn thử thách, chông gai. Những cám dỗ của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tương đối và vô vàn học thuyết độc hại khác đã kéo người ta ra khỏi sự thành tín và dễ dàng phản bội hoặc phá vỡ giao ước tình yêu. Đối diện với thực trạng ly hôn trong xã hội và cả Giáo hội ngày nay, sẽ không thuyết phục khi khẳng định rằng tất cả tín hữu Chúa Kitô chọn bậc sống hôn nhân đều có thể sống trọn vẹn các đặc tính của hôn nhân Công giáo để làm chứng cho Tin Mừng tình yêu. Chúng ta đang chứng kiến rất nhiều gia đình Công giáo tan vỡ bởi các vấn nạn như ngoại tình, bạo lực, bất đồng quan điểm và thậm chí là những mâu thuẫn trong đức tin…Tuy nhiên, ở góc độ của niềm hy vọng, chúng ta được nâng đỡ bởi biết bao mẫu gương hôn nhân thật đẹp và đầy tín trung. Trước hết là hình ảnh của Thánh Gia, nơi mà Mẹ Maria và Thánh Giuse đã sống trọn vẹn giao ước hôn phối trong sự thánh thiện bởi niềm tín thác vào Thiên Chúa. Các ngài đã rao giảng về tình yêu của Thiên Chúa và đưa tình yêu ấy đến với nhân loại qua Người Con của mình là Đức Giêsu Kitô. Chứng từ cho niềm cậy trông vào tình yêu tận hiến của Thiên Chúa còn được thể hiện qua rất nhiều cuộc hôn nhân của các vị thánh mà Giáo hội đã tôn vinh từ thời Kinh Thánh đến thời hiện đại và cả những gia đình Công giáo đang âm thầm sống chứng nhân giữa đời hôm nay. Trong đó, chúng ta được ngắm nhìn cuộc hôn nhân thánh của song thân Đức Maria, hai thánh Gioakim và Anna. Qua người con của các ngài, chúng ta tin chắc các ngài là những người công chính đã một lòng một ý để giữ gìn tình yêu phu phụ mà Thiên Chúa ban tặng cho đến trọn đời. Cha mẹ của thánh Gioan Tẩy giả cũng là mẫu mực cho sự tín trung và bất khả phân ly của hôn nhân trong thánh ý vì họ đã gắn bó với nhau suốt đời dù phải trải qua kinh nghiệm khổ nhục của những người hiếm muộn cho đến lúc cao niên. Thánh Phaolô trong các thư của mình cũng vinh danh ông bà Aquila và Priscilla là đôi vợ chồng đã cộng tác và hỗ trợ ngài rất nhiều trong hành trình truyền giáo. Chính Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI cũng ngợi khen họ: “Chúng ta hãy tôn kính ông bà Aquila và Priscilla như mẫu gương của đời sống hôn nhân và dấn thân tích cực phục vụ cộng đoàn Kitô hữu. Nơi các ngài, chúng ta gặp thấy khuôn mẫu của Giáo hội là gia đình của Thiên Chúa cho hết mọi thời.” Và rồi, còn những cặp vợ chồng sống trong nhiều thời đại khác nhau đã được tôn vinh lên hàng chân phước và hiển thánh vì đời sống hôn nhân của họ làm toát lên giá trị Tin Mừng tuyệt đẹp. Cũng vậy, ở đâu đó âm thầm trong cuộc sống, chúng ta có thể thấy nhiều cặp vợ chồng Công giáo đã quyết tâm giữ giao ước hôn nhân dù phải đối mặt với những rào cản hoặc trở ngại do văn hoá, từ phía xã hội và ngay trong gia đình. Họ là chứng nhân trung thành cho tình yêu tận hiến vĩnh cửu của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thế gian đến mức ban Người Con duy nhất của Ngài cho thế gian (x.Ga 3,16) và Người Con ấy cũng yêu thương nhân loại cho đến cùng (x.Ga 13,1), khi dâng mình làm hy lễ đền tội cho muôn người.
Trong bậc sống hôn nhân, rất nhiều tín hữu Chúa Kitô vẫn đang từng ngày nỗ lực để chu toàn ơn gọi của mình như lòng Chúa mong đợi. Khi can đảm cầm tay nhau để nói lên câu ước thề: “Anh/em…nhận em/anh… làm vợ/chồng, hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em/anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em/anh mọi ngày suốt đời anh/em” là hai con người ấy đang bước vào hành trình sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh. Có thể nói tình yêu trung kiên và không thể tách rời của đôi hôn phối và sứ mạng Phúc Âm hoá luôn gắn liền và bổ trợ cho nhau. Tình yêu duy nhất và trung thành đó giúp những người xung quanh nhận ra tình yêu tận hiến vô biên của Thiên Chúa. Ngược lại, khi ở trong sứ mạng truyền giáo, đôi vợ chồng ngày càng khắng khít nên một để mở ra cho những sự sống mới. Tất cả những ý nghĩa đó đưa đến cho thế giới niềm hy vọng về ơn cứu độ của Thiên Chúa là Đấng đầy lòng xót thương.
2. Gia đình Công giáo – Niềm hy vọng vào sự sống mới và ơn cứu độ của Thiên Chúa
Từ khởi nguyên của tạo dựng, Thiên Chúa đã ban cho người nam có một trợ tá tương xứng là người nữ. Trong sự bổ túc lẫn nhau, họ thực hiện lệnh truyền của Ngài: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 1,28). Hôn nhân Công giáo của một người nam và một người nữ tự bản tính phải mở ra để đón nhận sự sống mới đó là sự sinh sản và giáo dục con cái vì “tình yêu luôn mang đến sự sống.” Đây là ân huệ cao cả mà Thiên Chúa ban cho những người sống ơn gọi hôn nhân gia đình để cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu độ của Ngài. “Vợ chồng chính là những người đã được Thiên Chúa giao cho trách vụ biểu lộ tính chất thánh thiêng và sự êm dịu của lề luật liên kết hai sự việc tình yêu giữa hai người phối ngẫu và việc họ cộng tác với Thiên Chúa tình yêu tạo dựng đời sống con người.” Nói cách khác, việc truyền sinh và giáo dục con cái giúp họ thi hành sứ mạng loan truyền cho thế giới niềm hy vọng về sự sống mới và ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa.
Khi đôi phối ngẫu bước vào đời sống hôn nhân Công giáo, họ không chỉ có nhiệm vụ làm cho tình yêu tăng triển trong phạm vi riêng của hai con người nhưng còn sẵn sàng đón nhận và giáo dục con cái là hoa trái tình yêu đã được Thiên Chúa chúc lành và thánh hoá. “Việc mở ra đón nhận sự sống với vai trò làm cha, làm mẹ có trách nhiệm là chương trình mà Đấng Tạo Hóa đã ghi khắc trong trái tim và thân xác của người nam người nữ, là sứ mạng Chúa đã giao phó cho các đôi vợ chồng và tình yêu của họ.” Nhờ đó, họ thực hiện sứ mạng truyền giáo trước là cho chính gia đình mình và sau là cho tất cả những người xung quanh. Chúng ta không khó để đọc hoặc nghe biết được những câu chuyện về các gia đình Công giáo hết sức trân trọng và yêu mến món quà con cái mà Thiên Chúa tặng ban cho họ. Có những bậc cha mẹ bất chấp tính mạng của mình chỉ để giữ lại sự sống cho một bào thai bé bỏng. Thánh Gianna Beretta Molla vàĐấng đáng kính Maria Cristina Cella Mocellin là những người mẹ đã hy sinh mạng sống của mình để những đứa trẻ được sống. Cả hai ngườiphụ nữ nàyđều từ chối điều trị căn bệnh ung thư để tránh gây nguy hiểm cho thai nhi của họ. Cũng giống như các người nữ thánh thiện ấy, câu chuyện về một người mẹ trẻ – Chị Anna Nguyễn Thị Kim Hương, người con của giáo xứ Tân Bắc, giáo phận Xuân Lộc đã khiến cho nhiều người phải thán phục và nhìn lại đời sống đức tin cũng như lòng yêu mến và cậy trông của mình vào Thiên Chúa. Người phụ nữ 34 tuổi đang sống hạnh phúc bên chồng và có một con trai. Chị đã can đảm quyết định không chữa trị căn bệnh ung thư phổi khi biết mình đang mang thai con thứ 2 vì chị muốn bảo toàn sự sống của sinh linh bé nhỏ mà Thiên Chúa đã đặt vào cung lòng chị. Sau khi sinh con được vài tháng thì chị về với Chúa vì mọi phương pháp điều trị lúc đó đã quá muộn. Những người mẹ ấy dù đã được tôn vinh lên hàng hiển thánh, hoặc là bậc đáng kính, hoặc chỉ là một người phụ nữ rất bình thường, chẳng mấy ai biết đến nhưng họ đều có một điểm chung là đã trở nên những chứng nhân cho tình yêu dám hiến mạng vì người mình yêu. Hay nói cách khác, họ chính là những vị thừa sai trong gia đình đã mở ra hy vọng sự sống cho những đứa con của mình nhưng đồng thời họ cũng gửi đến thế giới thông điệp tình yêu về việc bảo vệ sự sống. Đó là một cách thế loan báo Tin Mừng hữu hiệu và mạnh mẽ hơn mọi lời giảng dạy, như Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã nhận định: “Thế giới ngày hôm nay cần chứng nhân hơn thầy dạy.” Trong khi thực trạng phá thai và những biện pháp ngăn chặn, lựa chọn hoặc sàng lọc sự sống con người đang là nỗi trăn trở của Mẹ Hội Thánh và cả những người thiện chí trong xã hội thì còn đó biết bao người cha, người mẹ đang đau đáu tìm mọi cách níu giữ mạng sống của những đứa con mang dị tật bẩm sinh hoặc mắc bệnh hiểm nghèo. Họ đánh đổi máu, mồ hôi, nước mắt và cả danh dự chỉ vì muốn con cái mình được sống dù chỉ có một tia hy vọng mong manh. Thế nhưng, ánh sáng của niềm hy vọng nhỏ bé đó lại là ngọn hải đăng giúp chúng ta tìm đến với niềm cậy trông lớn lao hơn vào sức sống mãnh liệt từ Thiên Chúa, sức sống của tình yêu, của sự phục sinh và ơn cứu độ.
Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ khẳng định việc sinh con và phát triển sự sống theo ý Chúa của hôn nhân Công giáo là một chứng từ sống động cho Tin Mừng tình yêu thì phải chăng những đôi phối ngẫu không có khả năng sinh sản sẽ gặp khó khăn khi tham gia vào sứ mạng Phúc Âm hoá? Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy: “Những đôi phối ngẫu không được Thiên Chúa ban cho có con cái,vẫn có thể có đời sống hôn nhân đầy ý nghĩa trên bình diện nhân bản, cũng như bình diện Kitô giáo. Hôn nhân của họ có thể tỏa sáng bằng sự sinh sôi nảy nở lòng bác ái, sự đón nhận và hy sinh.” Điều này có nghĩa là họ hoàn toàn có khả năng trở thành những nhà truyền giáo ngang qua chính hoàn cảnh của mình. Bằng chứng là có một số cặp vợ chồng đã nhận con nuôi và luôn tin tưởng rằng đứa con đó là quà tặng của Thiên Chúa. Việc nhận nuôi những đứa trẻ bị bỏ rơi và bất hạnh chính là hoa trái của tinh thần sống theo Phúc Âm trong họ. Một số cặp hôn nhân hiếm muộn khác thì tìm cách làm cho cuộc sống Kitô hữu của mình trở nên có ý nghĩa qua việc làm thiện nguyện, bác ái và đóng góp vào công ích của Giáo hội và xã hội. Họ đã mạnh dạn vượt qua nỗi buồn của những người khao khát làm cha mẹ nhưng không thể để mở ra nhiều cơ hội làm chứng cho niềm hy vọng và niềm tin vào Thiên Chúa là cội nguồn của sự sống và tình yêu. Chúng ta chân nhận đó cũng là một hình thức thừa sai bằng chứng tá mà Giáo hội cổ võ và Thiên Chúa chúc lành.
Cùng với việc sinh con và nuôi dưỡng chúng, người làm cha mẹ còn được mời gọi giáo dục con cái theo tinh thần Kitô giáo. Đây không phải là “một trách nhiệm hay một gánh nặng, nhưng còn là một quyền thiết yếu và bất khả nhượng mà cha mẹ được mời gọi để bảo vệ và không ai có thể tước nó khỏi cha mẹ.” Qua việc giáo dục này, họ thực thi vai trò thừa sai của mình trong đời sống hôn nhân gia đình cách tích cực hơn nữa. “Việc huấn giáo trong gia đình là một trợ lực lớn lao, như một phương pháp hiệu quả nhằm huấn luyện các cha mẹ trẻ và làm cho họ ý thức sứ mạng của mình như là những người loan báo Tin mừng cho chính gia đình mình.” Qua tình yêu duy nhất và chung thuỷ, cha mẹ dạy con mình trung thành tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự đồng thời biết sống yêu thương và dám hy sinh vì người khác. “Chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí tràn đầy tình yêu cũng như lòng tôn kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, đặc biệt trong gia đình các Kitô hữu, với ân sủng dồi dào và sự nâng đỡ của bí tích Hôn nhân, con cái phải được dạy dỗ ngay từ tuổi ấu thơ, hợp với đức tin đã lãnh nhận khi chịu bí tích Thánh tẩy, để nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa, đồng thời yêu thương mọi người chung quanh.” Trong thực tế của gia đình, ông bà cha mẹ là những người truyền dạy đức tin cho con cháu cách thuận tiện và hiệu quả nhất vì trẻ thơ thường dễ dàng chịu ảnh hưởng bởi lối sống của người lớn gần chúng. Trẻ có thói quen đọc kinh, cầu nguyện và đi lễ cũng bởi được cha mẹ hướng dẫn và làm gương. Ngược lại, đôi khi trẻ em lại đưa đến cho những người trưởng thành nhiều bài học ý nghĩa về sự đơn sơ chân thật, niềm tín thác, lòng hiếu thảo, sự biết ơn và cả những đức tính tốt đẹp khác như những chứng từ sống động cho sứ vụ loan báo Tin Mừng qua ơn gọi hôn nhân gia đình. Một vài phụ huynh (Công giáo cũng như ngoài Công giáo) của các bé học ở trường mầm non thuộc các Hội Dòng nữ chia sẻ: “Cứ tối đến, trước khi đi ngủ, bé bắt buộc ba mẹ phải ngồi đọc kinh tạ ơn Chúa với bé. Ba mẹ dù có biết Chúa hay không cũng phải làm dấu Thánh giá và chắp tay nguyện cầu cùng con.” Hoặc có một nữ học sinh trung học người Việt Nam du học ở Philippines đã xin người viết hướng dẫn và đỡ đầu để em được theo đạo Công giáo. Khi trở về gia đình, em đã khiến cho người nhà mình thay đổi suy nghĩ về Đạo. Em kể: “Sơ biết không, mẹ con không cấm con theo Đạo nhưng cũng không hoàn toàn có cái nhìn tốt về Đạo. Vậy mà bây giờ tối nào mẹ cũng cùng con nghe những bài giảng trên mạng của các cha và mẹ còn nói: cha giảng có nhiều cái hay ha con.” Đơn sơ thế thôi nhưng có lẽ những chia sẻ đó đã để lại trong người viết nhiều suy tư về sứ vụ thừa sai của mình cũng như cảm thấy tràn đầy hy vọng khi biết được những hạt giống Tin Mừng của Hội Thánh vẫn đang từng ngày sinh sôi nảy nở dù âm thầm nhưng không bao giờ tàn úa.
Hình ảnh Đức Giêsu được sinh ra và nuôi dạy trong một gia đình trần gian là minh chứng cho thấy ơn gọi hôn nhân gia đình trong ý định của Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta đến với niềm hy vọng lớn lao. Mọi thành viên trong gia đình Thánh là hình mẫu lý tưởng cho những ai làm vợ chồng, cha mẹ, con cái. Mẹ Maria và Thánh Giuse đã can đảm “xin vâng” để đón nhận, cưu mang và dưỡng dục Người Con của Thiên Chúa. Các ngài đã đi cùng con của mình cho đến hết cuộc đời để qua Người Con ấy, nhân loại được cứu rỗi khỏi ách thống trị của tội lỗi. Các mẫu gương gia đình Công giáo đã được phong thánh là những minh chứng rõ ràng và thuyết phục khi cho rằng gia đình Công giáo là niềm hy vọng cho sứ mạng loan báo Tin Mừng. Phải kể đến Thánh nữ Monica, người mẹ đã có công sinh dưỡng, dạy dỗ và kiên trì cầu nguyện để đưa về cho Giáo hội một vị thánh lớn và hết sức nhiệt thành. Hai thánh Louis Martin và Zélie Guérin là cặp vợ chồng đầu tiên được lên bậc hiển thánh cùng lúc, các ngài đã dâng hiến cho Giáo hội những người con ưu tú trong đời thánh hiến mà trong đó người con gái út Têrêsa Hài Đồng Giêsu là Tiến sĩ Hội Thánh và được chọn làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Chân phước Luigi và chân phước Maria Beltrame cũng là những bậc cha mẹ sống trọn vẹn bổn phận của mình trong gia đình để những người con của các ngài nhờ đó mà cũng trở nên thánh thiện trong ơn gọi tu trì. Điều này cho thấy ơn gọi thánh hiến được nảy sinh và thăng tiến là nhờ sự giáo dục, định hướng, khích lệ và nâng đỡ từ trong gia đình. Từ đó, Giáo hội có thêm những người thợ lành nghề dấn thân trong công cuộc rao giảng Nước Thiên Chúa. Nhiều vị thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta cũng đã nêu gương tuyệt vời trong đời sống gia đình như Thánh Annê Lê Thị Thành, Thánh Antôn Nguyễn Đích, Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng…Các ngài không những là chứng nhân trung thành của Tin Mừng mà còn giáo dục những người con của mình sống tinh thần truyền giáo mãnh liệt với lòng đạo đức, mến yêu tha nhân và tôn thờ Thiên Chúa. Điều đó thật đúng như Đức Thánh Cha Phanxicô quả quyết: “Những đứa con lớn lên trong các gia đình truyền giáo thường trở thành những nhà truyền giáo, nếu như cha mẹ biết cách sống sứ vụ này, bằng cách đó người khác cảm thấy họ gần gũi và thân thiện, và như thế con cái lớn lên theo cách tương quan này với thế giới mà không từ bỏ đức tin và những xác tín của mình.”
Như vậy, sẽ không là quá lời khi nói rằng gia đình Công giáo chính là niềm hy vọng cho sứ mạng loan báo về sự sống mới và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Khi ở trong môi trường yêu thương và thánh thiện của “Hội Thánh tại gia – Ecclesia domestica”, các thành viên làm nên một cộng đoàn truyền giáo có cùng tinh thần và truyền thống gia đình. Đồng thời, mỗi cá nhân cũng được tạo điều kiện để làm phong phú sứ mạng “người môn đệ truyền giáo” theo một cách riêng và độc đáo.
3. Gia đình Công giáo – Chứng tá của niềm hy vọng
Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp cho ngày Thế giới truyền giáo 2025 đã viết: “Ước gì chúng ta cũng cảm thấy được thôi thúc lên đường theo bước chân Chúa Giêsu, để cùng với Người và trong Người, trở thành những dấu chỉ và sứ giả của niềm hy vọng cho mọi người, ở bất cứ nơi đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào mà Thiên Chúa đặt để chúng ta. Ước mong mọi Kitô hữu đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, với tư cách là những môn đệ truyền giáo của Chúa Kitô, làm cho niềm hy vọng của Người tỏa sáng đến tận cùng trái đất!” Đây là lời mời gọi dấn thân cho sứ mạng loan báo Tin Mừng mà Đức Giáo hoàng gửi đến mọi thành phần của Giáo hội. Sứ mạng đó đặc biệt được nhấn mạnh đến việc làm cho niềm hy vọng được lan rộng khắp nơi. Với ý nghĩa như một Hội Thánh thu nhỏ, gia đình Công giáo chắc chắn cũng nhận biết rõ trách nhiệm của mình đối với việc trở nên chứng tá của niềm hy vọng. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng từng khẳng định: “Tương lai của nhân loại sẽ đến qua gia đình.” Như vậy, bên cạnh vai trò là niềm hy vọng của sứ mạng thừa sai, các gia đình cần phải làm gì để chứng minh cho niềm hy vọng vào Thiên Chúa?
Như là một “cộng đoàn Kitô nhỏ”, gia đình Công giáo làm cho những người xung quanh nhận biết Thiên Chúa ngang qua việc cùng nhau thực hành đời sống đức tin. Việc này có thể rất bình thường đối với những gia đình có truyền thống giữ Đạo sốt sắng. Tuy nhiên, trong thời đại kĩ thuật số phát triển và chịu ảnh hưởng bởi nhiều loại hình văn hoá, có bao nhiêu gia đình có thể thực hiện được? Đối mặt với rất nhiếu vấn đề cũng như cám dỗ trong cuộc sống, mỗi thành viên của gia đình cảm thấy thật khó khăn để cùng nhau sống đức tin. Những người thừa sai tự hỏi: làm sao các gia đình có thể hoàn thành sứ mạng rao giảng niềm hy vọng của mình? Không thất vọng, chúng ta chiêm ngắm những chứng từ sống động và thực tế đang diễn ra xung quanh chúng ta. Vẫn còn đó, hình ảnh những gia đình cùng nhau tham dự Thánh Lễ, cùng duy trì những bữa cơm chung và cùng đọc kinh cầu nguyện. Bên cạnh đó, gia đình còn là hậu thuẫn vững chắc để mọi thành viên yên tâm tham gia vào các công việc tông đồ của Giáo hội. Cha mẹ khuyến khích con cái học và dạy giáo lý, sinh hoạt và cộng tác vào những việc công ích. Vợ chồng tạo điều kiện và động viên nhau phục vụ cộng đồng giáo xứ hoặc giáo phận. Trong kinh nghiệm giúp mục vụ, người viết biết được nhiều gia đình có ông bà, cha mẹ, con cháu đều nhiệt tình tham gia các hội đoàn trong giáo xứ. Một số gia đình khác còn cùng nhau tham dự tĩnh tâm và học hỏi các khoá học về Kinh Thánh hoặc liên quan đến đời sống thiêng liêng. Mặc dù đó chỉ là một số ít những gia đình có thể cùng nhau thực hành đức tin Công giáo nhưng chúng ta có quyền hy vọng hạt giống Tin Mừng được gieo trồng trong mảnh đất tốt của những gia đình ấy sẽ đưa về những mùa lúa dồi dào cho Thiên Chúa.
Thánh Công đồng dạy: “Nhiệm vụ chính của giáo dân, nam cũng như nữ, là làm chứng về Chúa Kitô bằng cách sống cũng như bằng lời nói, trong gia đình, trong các đoàn thể xã hội, cũng như trong môi trường nghề nghiệp. Thật vậy, họ phải biểu lộ con người mới đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, trong sự công chính và thánh thiện của chân lý (x. Ep 4,24).” Như vậy, gia đình Công giáo được mời gọi tham dự vào công cuộc Phúc Âm hoá bằng đời sống mẫu mực với tinh thần đạo đức và yêu thương, cùng niềm trông cậy và tín thác, cũng như sự ôn hoà, nhẫn nại, tha thứ và tương trợ. Ở môi trường – nơi mình sống, làm việc và phục vụ, nếu từng thành viên của gia đình có ý thức làm chứng tá bằng lời nói cũng như việc làm dựa trên nền tảng là những nhân đức ấy thì chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng rằng tiếng vang của Phúc Âm sẽ còn lan toả mãi và ngày càng sâu rộng đến cho muôn dân. Câu chuyện của một gia đình Công giáo mà người viết biết đến có lẽ là một lời chứng hùng hồn. Gia đình ấy có người con dâu nghiện ma tuý. Mỗi lần lên cơn nghiện, cô ấy không còn phân biệt được người trên kẻ dưới, liên tục chửi mắng, xúc phạm cha mẹ chồng và những người xung quanh. Cô ấy thường xuyên trộm cắp trong gia đình hoặc vay mượn hàng xóm láng giềng để thoả mãn thói hư của mình. Thế nhưng, chưa một lần nào cô ấy bị gia đình chồng ruồng bỏ và hết yêu thương. Những năm tháng cô ở trại cai nghiện, ba mẹ chồng và chồng vẫn kiên nhẫn thăm nom và động viên tinh thần của cô ấy. Trở về sau khi cai nghiện, người con dâu chia sẻ: “Tình thương, sự kiên nhẫn, lòng bao dung của ba mẹ chồng, của chồng và những người trong gia đình đã chữa lành con. Dù con có tồi tệ hết lần này đến lần khác nhưng mọi người vẫn tha thứ và đón nhận con quay trở về. Con muốn làm lại cuộc đời để từ nay sống trọn bổn phận của người con, người vợ và người mẹ.” Những chứng nhân sống động như vậy giúp củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào một Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Đó chính là cách hữu hiệu mà một gia đình Công giáo có thể làm để thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng.
Tuy nhiên, không bao giờ là dễ dàng để sống cho Tin Mừng. Những thách đố và sóng gió trong cuộc đời của những người thừa sai không thể khác với những gì Thầy Giêsu đã trải qua trong khi rao giảng về Nước Trời. Những người theo Chúa Kitô trong ơn gọi hôn nhân gia đình làm sao tránh khỏi những lúc chán nản, buông bỏ, thậm chí đi ngược lại với tinh thần Phúc Âm? Họ được mời gọi trở về với Lời Chúa để làm vang lên trong tâm hồn mình tiếng nói của Đấng đưa đến niềm hy vọng vì: “Những người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân.” (Is 40,31).
Những Lời ấy có thể nâng người ta đứng dậy mỗi khi không còn nhiệt huyết để làm chứng cho Tin Mừng. Chúng ta xác tín rằng: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105). Bên cạnh đó, việc cầu nguyện với Thiên Chúa – Đấng là nguyên nhân của niềm hy vọng cũng cần thiết và quan trọng để các gia đình có thêm sức mạnh khi thi hành sứ mạng thừa sai như Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện.” (Rm 12,12).Đức Thánh Cha Phanxicô cũng xác tín: “Những nhà truyền giáo của hy vọng là những con người cầu nguyện, bởi vì ‘người có hy vọng là người cầu nguyện’. Chúng ta đừng quên rằng cầu nguyện là hoạt động truyền giáo tiên quyết và đồng thời cũng là ‘sức mạnh đầu tiên của niềm hy vọng’.”
Trong vai trò là “những người thợ của niềm hy vọng”, các gia đình cũng được mời gọi “công bố Phúc Âm với một nhiệt tâm mới, một ngôn ngữ mới, một ngôn ngữ dễ hiểu trong ngữ cảnh văn hoá dị biệt, và một phương pháp mới có khả năng thông truyền ý nghĩa sâu sắc nhất của sứ điệp, ý nghĩa bất biến của nó.” Đó chính là lời mời gọi Tân Phúc Âm hoá trong chính ơn gọi của mình. Điều này đòi hỏi gia đình Công giáo phải nỗ lực rất nhiều để có thể thấm nhuần tinh thần Tin Mừng và có những sáng kiến trong công cuộc truyền giáo. Đồng thời, cùng với tất cả các thành phần khác trong gia đình Giáo hội, các gia đình Công giáo luôn bước đi trên con đường hiệp hành, trong định hướng “Đồng hành-Tham gia-Sứ vụ”. Từng gia đình có ý thức trách nhiệm tháp nhập vào sứ mạng truyền giáo không ngừng nghỉ của Mẹ Giáo hội để trở nên dấu chỉ của niềm hy vọng trong thế giới còn nhiều người bị gat ra bên lề, sầu khổ và cô đơn, dễ tổn thương và đang dần đi vào tuyệt vọng.
Kết luận
Trải qua nhiều thời đại và nhiều nền văn minh trên thế giới, hôn nhân gia đình vẫn được nhìn nhận là “một trong những điều thiện hảo quý giá nhất của nhân loại.” Đặc biệt đối với Hội Thánh, gia đình Công giáo có một vai trò quan trọng trong việc thực thi sứ mạng truyền bá Phúc Âm. “Vì gia đình Kitô hữu dự phần vào sự sống và sứ mạng của Hội Thánh, một Hội Thánh đang kiên trì lắng nghe Lời Thiên Chúa với tâm tình tôn giáo và đang công bố Lời ấy với lòng tin cậy mãnh liệt, nên gia đình ấy sống vai trò tiên tri của mình bằng cách đón nhận và loan báo Lời Chúa; như thế gia đình ngày càng trở nên một cộng đồng tin và rao giảng Tin Mừng. Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận – chứng nhân của niềm hy vọng đã viết:
Gia đình là tế bào của Hội Thánh. Chân lý này làm thấy rõ sự cao cả và sứ mạng của gia đình:
1) Nối tiếp Hội Thánh Chúa Giêsu đã thiết lập ở trần gian.
2) Hiện diện của Chúa là chủ gia đình thực sự.
3) Thừa tác vụ tư tế trong gia đình là vai trò của người cha.
4) Chứng tích sự hiện diện Hội Thánh bằng sự sống gia đình hằng ngày.
5) Nỗ lực vươn lên đến Chúa của gia đình, làm Hội Thánh cùng tiến lên.
6) Liên lạc giữa Chúa và mỗi chi thể trong gia đình.
Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định gia đình Công giáo chính là niềm hy vọng cho sứ mạng loan báo Tin Mừng. Khi tham gia vào sứ mạng có tính bản chất của toàn thể Giáo hội, mỗi gia đình Công giáo ý thức sống trọn vẹn hơn những đặc tính của Bí tích Hôn phối cũng như ý nghĩa và mục đích của ơn gọi hôn nhân gia đình. Ngược lại, qua việc sống tình yêu duy nhất và thuỷ chung cũng như mở ra cho những sự sống mới, gia đình Công giáo trở nên dấu chỉ của niềm hy vọng vào tình yêu tận hiến vĩnh cửu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Hơn thế nữa, gia đình của niềm hy vọng còn là chứng từ sống động và thuyết phục cho thế giới nhận ra một Thiên Chúa không bao giờ làm chúng ta thất vọng vì Ngài đã ban tặng cho chúng ta người Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô – “niềm hy vọng của chúng ta, là Đấng mà Giáo hội có nhiệm vụ phải loan báo luôn mãi, ở mọi nơi và cho tất cả mọi người.”
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 147 (Tháng 5 & 6 năm 2025)
Để lại một phản hồi