Dẫn nhập
Mọi hiện hữu trong vũ hoàn này đều phản ảnh vinh quang Thiên Chúa. Tuy nhiên, con người mới chính là “tối linh ư vạn vật”, là thụ sinh phản chiếu tròn đầy nhất dung mạo của Đấng Tạo Hóa với tư cách là một hữu thể toàn vẹn bao gồm thể xác và tinh thần. Nhân thị tối thắng! Trong khi sự vật không biết gì về Đấng Tạo Hóa, con người lại được Thiên Chúa ban cho khả năng tiếp cận, nắm bắt và trao đổi thông tin với Người; đồng thời, có thể nhận biết Thiên Chúa là cùng đích tối hậu hiểu theo nghĩa raditus (xuất phát) và exitus (đích điểm) của mọi thụ tạo. Khả năng đó hoạt động được là nhờ có đặc ân ngôn ngữ – dấu chỉ con người được chia sẻ Trí Tuệ trác tuyệt và Đức Khôn Ngoan vĩ đại của Thiên Chúa. Qua đó, Thiên Chúa “ngỏ Lời” với con người, và con người “tiếp nhận Lời” của Thiên Chúa. Như vậy, để mặc khải chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa đã đoái thương dùng ngôn ngữ loài người mà nói với họ và chứa đựng kho tàng chân lý mặc khải của Người qua các Sách Thánh. Từ thuở bình minh của nhân loại cho đến nay, Kinh Thánh được xem như là quyển sách thánh thiêng và giá trị nhất bởi lẽ tất cả những cuốn sách trên thế giới này đều là lời của con người, chỉ duy mình Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa hằng sống. Dù được chia làm hai phần là Cựu Ước (46 cuốn) và Tân Ước (27 cuốn), nhưng những cuốn Sách Thánh lại làm nên một cuốn Kinh Thánh duy nhất và một dòng chảy lịch sử cứu độ duy nhất . Có rất nhiều luận cứ để minh định cho “duy nhất tính” của Kinh Thánh. Tuy nhiên, ở phạm vi bài viết ngắn gọn này, người viết xin được dừng chân ở một vài khía cạnh chính để làm rõ tính duy nhất nhiệm lạ của cuốn sách vô song này.
Góc nhìn từ nguyên
Trước tiên, thiết nghĩ, cần phải có một cái nhìn thấu đáo về mặt từ nguyên của Kinh Thánh. Thuật ngữ Kinh Thánh có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp “βιβλίοv” (Biblia) nghĩa là những cuốn sách, tên tiếng La Tinh là Scriptura, nghĩa là “điều được viết ra, bản thảo”; tiếng Anh đầu tiên gọi là Biblelh, về sau thống nhất gọi là The Bible, nghĩa là sách kinh điển . Còn trong chữ Hán, khi dịch Cựu Ước và Tân Ước ra chữ Hán, người Trung Quốc gán cho hai cuốn sách này cái tên “Thần thánh điển phạm” (Mẫu mực thiêng liêng) và “Thiên kinh địa nghĩa” (Đạo nghĩa muôn thuở). Về sau, khi in gộp Cựu Ước và Tân Ước thành một bộ sách, người Trung Quốc ghép hai chữ thứ hai lại thành “Thánh Kinh” hoặc “Kinh Thánh”, nghĩa là sách viết những điều cao siêu về thần linh . Thánh Augustinô đã nói rằng: “Thánh Kinh là bức thư tình mà Thiên Chúa gửi cho chúng ta là bạn hữu của Người” (Augustino, Enarr in Ps 90). Nói đến thư tình là nói đến những dòng chữ chất chứa tình thương, và qua những dòng chữ ấy, Thiên Chúa mặc khải và tỏ lộ cho con người ý định cứu độ yêu thương của Người. Quả vậy, Hiến Chế Mặc Khải của công đồng Vaticanô II đã khẳng định lại nhận định đó và công bố rằng: “Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa nói với loài người để mặc khải cho họ về chính Thiên Chúa, về tình thương, ý định và chương trình cứu độ của Người, nhờ đó con người có thể nhận biết Thiên Chúa và thông phần bản tính của Người (Dei Verbum 25).
Thánh Kinh – Cuốn sách Mặc Khải về một Thiên Chúa Ba Ngôi
Chúng ta không tìm thấy từ “Thiên Chúa Ba Ngôi” trong Thánh Kinh, thế nhưng mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi được bắt nguồn từ Thánh Kinh. Sách Sáng Thế vén mở cho ta về những bàn bạc nội bộ của Thiên Chúa, nói theo số nhiều của các Ngôi vị qua các trình thuật St 1,26 (Tạo dựng), St 11,7 (tháp Babel) hay ở St 18,2-3 (Ba sứ thần thăm viếng Abraham). Qua thời các tổ phụ, dân Do Thái được miêu tả là bị bao quanh bởi những định chế đa thần, tuy vậy, họ vẫn luôn trung thành với niềm tin vào một Giavê duy nhất (Đnl 6,4-5; Ds 6,24-27) . Ngoài ra, những lời tiên báo Thiên Chúa duy nhất được thể hiện qua các Thủ lãnh và ngôn sứ trong Cựu Ước (Tl 6,4-5, Is 6,8; 45,22-24; 48,16; 61,1), đồng thời, việc có nhiều ngôi vị nơi Thiên Chúa được chứa đựng trong thể loại văn chương Thánh Vịnh (Tv 2,7; Tv 7,14; Tv 98,27; Tv 109,1-3) và Khôn Ngoan (Kn 7,22-8,1; Kn 9,17). Qua các trình thuật Cựu Ước, ta thấy tất cả Kinh Thánh Cựu Ước đều diễn tả Thiên Chúa là Giavê duy nhất làm chủ muôn loài. Dù đôi chỗ có nhắc đến “Thần Khí” hoặc Đấng Thiên Sai Mêsia; nhưng dĩ nhiên, Cựu Ước không cho rằng đó là Chúa Thánh Thần hoặc Đức Giêsu, và dân Chúa trong Cựu Ước cũng không có kinh nghiệm về Thiên Chúa Ba Ngôi. Tuy những vén mở về Một Thiên Chúa Ba Ngôi còn chưa rõ, nhưng tất cả những hình ảnh và tư tưởng trên là nền tảng chuẩn bị cho sự mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm một Thiên Chúa Ba Ngôi trong chặng đường kế tiếp là Tân ước.
Bước sang Tân Ước, Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một sự hiểu biết chung cuộc và rõ ràng về một Thiên Chúa có Ba Ngôi Vị: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Toàn bộ cuộc đời, sứ vụ và các biến cố của Chúa Giêsu là mạc khải liên lỉ về dung mạo Thiên Chúa Ba Ngôi, đặc biệt là qua biến cố Truyền Tin (Lc 1,34-35), Chịu Phép Rửa (Mt 3,13–17; Mc 1,9-11; Lc 3,21-22), Hiển dung (Lc 9,28–36) và trọng tâm là biến cố Thương Khó và Phục Sinh, cùng với lệnh truyền của Đấng Phục Sinh dành cho các Tông đồ: “Hãy đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa” (x.Mt 28,19). Ngoài ra, chủ đề về Ba Ngôi còn được nhắc đến ở một số trích đoạn của sách Công Vụ Tông Đồ, các thánh thư và sách Khải Huyền trong Tân Ước (Cv 3,13; 4,10; 1 Cr 6,13-14; 2 Cr 13,4; Rm 4,25; Kh 1,5-7)
Thánh Kinh – Cuốn sách Mặc Khải về Chương Trình Cứu Độ Duy Nhất của Thiên Chúa
Chương trình cứu độ nhiệm mầu của Thiên Chúa là ý định thông ban chính mình Ngài và sự sống hạnh phúc vĩnh cửu cho loài người (x. Ep 1,4-10). Ý định này được thực hiện trong một kế hoạch cứu độ duy nhất hay nói cách khác một lịch sử cứu độ, bắt đầu từ khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất, đạt tới đỉnh cao nơi biến cố Chúa Giêsu và kéo dài cho đến ngày tận thế, khi Chúa Giêsu sẽ đến trong vinh quang để phán xét mọi người (x. GLHTCG 280). Chương trình cứu độ ấy được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa là tình yêu và giàu lòng xót thương (Felipe Gomez). Chính Thánh Kinh đã mặc khải cho ta biết rằng dù Thiên Chúa yêu thương con người vô bờ bến nhưng con người đã bao phen bội tín bất trung với giao ước, nên tội lỗi và đau khổ cứ đeo bám lấy thân phận con người. Suốt dọc dài lịch sử cứu độ, nhiều lần nhiều cách Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ, để mặc khải ý định cứu độ của Chúa và lôi kéo con người trở về, nhưng tất cả đều thất bại (x. Dt 1,1-2). Cuối cùng, vào thời điểm mà Người đã định (x. St 3,15), Thiên Chúa đã sai Con Một duy nhất của mình là Chúa Giêsu Kitô đến trần gian để cứu độ con người (x. Ga 3,16-17). Như vậy, mặc khải nơi biến cố Đức Giêsu đã hoàn tất “thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa” (Ep 1,9), đến nỗi khi con người sa ngã vì phạm tội chống lại Thiên Chúa thì không vì thế mà làm hỏng đi kế hoạch đã có từ đời đời của Thiên Chúa, bởi kế hoạch của Người luôn được thực hiện trong và nhờ Ngôi Lời, trở nên trọn vẹn nơi Ngôi Lời là Đức Kitô.
Chúa Giêsu – Lời cứu độ duy nhất của Thiên Chúa và trung tâm điểm của Kinh Thánh
Vì chỉ có một Thiên Chúa, một ý định cứu độ nhân loại và một mặc khải duy nhất, nên cả hai giao ước thống nhất với nhau: Tân Ước được Tiềm ẩn trong Cựu Ước, và Cựu Ước trở nên sáng tỏ trong Tân Ước (Novum testamentum in vetere latet. Vetus testamentum in novo patet) . Cựu Ước “chuẩn bị và báo trước ngày xuất hiện của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế”, còn Tân Ước trao cho chúng ta chính Chúa Kitô – Ngôi Lời (Logos), là “Dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha”, qua Ngài, Thiên Chúa nói hết về mình cho nhân loại. Như vậy, cả hai phần soi sáng cho nhau , cả hai làm nên một dòng chảy lịch sử duy nhất, một Cuốn Sách duy nhất và một Lời cứu độ duy nhất là Đức Kitô – Đấng trung gian cứu độ duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (1Tm 2,5). Chính ngôi vị Chúa Kitô đem lại sự thống nhất cho mọi “Sách Thánh”, làm chúng nên một “Lời” ; chính ngôi vị Chúa Kitô làm nên nội dung của Thánh Kinh vì toàn bộ Thánh Kinh nói về Người và được hoàn tất trong Người .
Chúa Thánh Thần – Tác giả duy nhất của Kinh Thánh
Hội Thánh luôn tin nhận rằng Chúa Thánh Thần là tác giả duy nhất của Thánh Kinh theo nghĩa Người là Đấng linh hứng và hành động trong các tác giả phàm nhân (DV 16); Vì thế, những điều Kinh Thánh dạy ta là chắc chắn, trung thành và không sai lầm (2Tm 3,16; Ga 20,31; 2 Pr 1,21; 2 Pr 3,15-16; DV 11). Do Kinh Thánh được “linh hứng” bởi Chúa Thánh Thần nên cũng phải được đọc và chú giải trong Chúa Thánh Thần (Haffner 2006, 91) hay nói theo ngôn ngữ của Ô-ri-gê-nê: “Điều gì phát sinh từ Thánh Thần chỉ hiểu được trọn vẹn nhờ Thánh Thần”. Công Đồng Vaticanô II đưa ra ba tiêu chuẩn để giải thích Kinh Thánh đó là: Trước hết phải chú ý hết sức đến nội dung và sự duy nhất của toàn bộ Kinh Thánh; thứ hai phải đọc Kinh Thánh trong truyền thống sống động của Hội Thánh; và thứ ba phải chú ý đến tính tương hợp của đức tin . Khi nói đến tính tương hợp của đức tin thì người đọc phải ý thức đến ý nghĩa thực thụ mà Kinh Thánh nhắm đến: “Nghĩa văn tự dạy về biến cố, nghĩa ẩn dụ dạy điều phải tin, nghĩa luân lý dạy điều phải làm, nghĩa dẫn đường dạy điều phải vươn tới” (Augustinô de Dacia). Và trên hết, đọc Kinh Thánh phải được xem là một cuộc hội thoại thân tình với Thiên Chúa qua sự kết hợp với Đức Kitô – Lời Hằng Sống, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, bởi vì nếu Thiên Chúa không mở trí thì con người không thể gặp được Thiên Chúa qua Thánh Kinh (Lc 24,45).
Kinh Thánh – Thần Lương nuôi dưỡng đời sống của Giáo Hội duy nhất
Giáo Hội từ thời các Tông Đồ cho đến hôm nay được sinh ra từ Lời Chúa, được xây dựng trên nền tảng Lời Chúa và sống bởi Lời Chúa. Giáo Hội đang lớn lên từng ngày nhờ lắng nghe, cử hành và học hỏi Lời Chúa trong Thánh Kinh (Verbum Domini 3). Qua Nhiệm Thể của Chúa Kitô là Giáo Hội, Thiên Chúa đã ủy thác việc rao truyền Lời ban sự sống, những nguồn ân sủng, con đường cứu độ cho muôn dân. Cho nên, sứ mạng loan báo Lời Chúa là sứ mạng tiên phong và sống còn của Giáo Hội như khi xưa Ngôi Lời đã trút bỏ hết vinh quang, trở thành xác phàm để đến với con người (x.Pl 2,6-8). Như vậy, việc mang Kinh Thánh đến với con người cũng có nghĩa là mang Thiên Chúa đến với con người.
Lời kết
Nói tóm lại, dù Kinh Thánh được chia làm nhiều cuốn; thế nhưng, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất nói với con người qua một cuốn sách duy nhất, một ngôn ngữ duy nhất là Đức Giêsu Kitô – Lời Tình Yêu của Thiên Chúa. Con người là một huyền nhiệm, mỗi con người là độc nhất trước mắt Thiên Chúa, có giá trị vô cùng cao quý trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Chính nhờ ánh sáng của Mạc Khải nơi Ngôi Lời Thiên Chúa mà mọi bí ẩn trong thân phận con người được sáng tỏ trọn vẹn (VD 6). Ước gì các Kitô hữu, cách riêng là những người sống đời thánh hiến luôn là biết thưởng thức hương vị ngọt ngào của Thánh Kinh và hít thở sự sống từ Thánh Kinh một cách mãnh liệt như ngôn sứ Giêrêmia đã thốt lên “gặp được Lời Chúa con đã nuốt vào, Lời Chúa trở thành hoan lạc cho con thành niềm vui của lòng con vì con được mang danh ngài” (Gr 15,16). Thật thế, không ai cho người khác những gì mình không có, nếu những người được thánh hiến rời xa hay không sống Lời Chúa, thì họ sẽ đem thứ “Tin Mừng” nào đến cho những người mình được trao phó. Nếu không có sức mạnh của Lời Chúa trong cầu nguyện thì bản thân sẽ nâng đỡ được ai, thắp sáng hy vọng và tạo niềm vui cho đối tượng nào được! Qua việc cầu nguyện, ước gì có một cuộc nhập thể mới của Lời xảy ra trong tâm điền mỗi người, đến nỗi nó sẽ tạo nên sức mạnh biến những cái bất nhất thành một tổng hòa duy nhất. Thật tuyệt vời biết bao khi chúng ta vừa “cầm cuốn Kinh Thánh trên tay” vừa “mang Ngôi Lời trong trái tim” và trở thành “những nhà tạm” nơi Lời của Thiên Chúa được chào đón và được lưu giữ cách sống động cho thế giới này.
Nữ tu Maria Trần Thị Diệu Huyền,
Dòng Mến Thánh Giá Vinh
WHĐ (22.9.2022)