

1. Dừng lại, kiên nhẫn, nán lại để cảm nhận điều vượt trên sự vật
Thật rõ ràng rằng thời gian là điều kiện thiết yếu để mọi thực tại dần dần bày tỏ ý nghĩa của chúng, toả sáng vẻ huyền nhiệm nơi chúng, và chạm đến khả năng cảm nhận của chúng ta. Điều này lại càng đúng trong thời đại hôm nay. Trẻ em và người trẻ thường chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố dẫn đến một lối sống ít vận động. Các em bị cuốn vào các màn hình, những thiết bị không ngừng truyền tải các thông tin thoáng qua. Tư thế bất động của thân thể trái ngược hoàn toàn với lượng thông tin, sự lôi cuốn, kiến thức và giải trí dồn dập đang được trình chiếu. Đồng thời, ngay từ rất nhỏ, các em đã bị cuốn vào vô số công việc, hoạt động thể thao và các khóa học nhằm phát triển kỹ năng này hay kỹ năng khác, như một cách để giảm bớt gánh nặng chăm sóc cho những bậc cha mẹ bận rộn. Điều này tạo ra nơi các em tình trang rối loạn tăng động giảm chú ý (hyperkinetic), nhưng lại rất nhạy cảm khi ít vận động.
Các em trở nên quá lý trí nhưng lại không làm chủ được cảm xúc; quá thể lý nhưng lại tách rời khỏi sự hiểu biết bản thân. Tình trạng mất quân bình này cần được chữa lành. Trẻ em và người trẻ hôm nay cần thời gian để khám phá thế giới bên ngoài cũng như thế giới nội tâm.
Để các sự vật có thể thu hút các em nhờ vào chính vẻ đẹp mà chúng chiếu tỏa chứ không chỉ vì chúng liên tục tác động lên các em, thì trẻ em phải được phép chán: được thả mình trong sự nhàn rỗi đầy sự sáng tạo, được làm những việc không nhằm mục đích sản xuất hay sinh lợi, cũng không nhất thiết phải phục vụ cho việc học ngay lập tức. Chúng ta cần phát triển những phương pháp sư phạm dựa trên sự tiếp xúc nhạy bén và bền vững với những thực tại gần gũi nhất, trong một khoảng thời gian đủ dài. Chẳng hạn, tập trung vào nhịp đập của trái tim, cảm nhận rõ ràng hơi thở của chính mình, kinh ngạc trước những dữ kiện mà các giác quan truyền tải khi chỉ tiếp xúc với một sự vật duy nhất tại một thời điểm.
Khi cung cấp cho trẻ em quá nhiều nhiệm vụ ngay từ sớm, chúng ta đang thiết lập nơi các em khả năng cảm nhận liên tục về điều nằm trong khoảng không gian giữa tri thức về một sự vật và thông điệp mà sự vật ấy truyền tải. Để có thể cảm nhận được điều này, điều thiết yếu là phải có khả năng biết chờ đợi.
Trên hết, đức tin đòi hỏi một sự luyện tập như thế, bởi vì đức tin không đáp lại những sự khiêu khích nhất thời, mà đáp lại khả năng cảm nhận điều đang âm thầm rung động vượt lên trên mọi sự vật hữu hình. Thiên Chúa được nhận biết chính trong việc trở về với các thực tại nhân sinh, nơi giúp chúng ta ý thức về sự hiện hữu của điều vượt trên hữu thể.
Theo đó, chúng ta cần giúp trẻ em và người trẻ tự mình khám phá mầu nhiệm của Thiên Chúa trong thế giới này. Và điều đó đòi hỏi một tiến trình phù hợp với từng giai đoạn phát triển của mỗi người.
Việc truyền đạt thông tin, các khái niệm liên quan đến đức tin, Kinh thánh, giáo lý… theo cách giống như trao tặng những món đồ vật chất thì không đem lại hiệu quả. Thay vào đó, tất cả những điều ấy cần được trình bày như những dấu chỉ dẫn đến điều sâu xa hơn, như những biểu tượng vượt lên trên sự vật cụ thể và chỉ tỏ lộ ý nghĩa cho một con tim biết kiếm tìm ý nghĩa cuộc sống. Chẳng hạn, mầu nhiệm Lời Chúa đã được viết trong truyền thống cần được tiếp cận bằng một thái độ mở lòng trước chính mầu nhiệm của quyển sách: độ dày, kích thước, chiều kích thánh thiêng, chức năng, màu sắc và sự phong phú của những thông điệp mà nó chất chứa.
2. Lặp lại, nhắc lại, quay trở lại
Là một năng lực tiêu biểu của ý thức con người, việc suy tư chính là một hành vi quay lại – nghiền ngẫm – những sự kiện và hoàn cảnh diễn ra trong đời sống chúng ta. Chúng ta cần kiên nhẫn khích lệ bản thân thực hành sự lặp lại của những hành vi, thói quen lành mạnh, các thực hành đạo đức, như một trong những cách thức thực hành thiết yếu để đạt được điều tốt đẹp cho cuộc sống.
Sự hiện hữu của chúng ta bị bao phủ bởi những kích thích không ngừng, tin tức nóng hổi, thiết bị luôn cập nhật. Chúng ta dần có cảm giác rằng mọi thứ đều phù du. Mọi sự trở nên lỗi thời quá nhanh; chẳng điều gì có đủ thời gian để mang lấy sức nặng hay tầm vóc lịch sử. Những điều mới mẻ xuất hiện rồi tan biến trong bầu khí tan rã của thông tin, dữ liệu, và của những “việc xảy ra”. Mọi thứ trôi qua mà không để lại dấu vết. Vì thế, những ai muốn hiểu rõ hơn về những gì Thiên Chúa đang thực hiện trong dòng lịch sử nhân loại thì nhất thiết phải nhìn lại lịch sử đã qua.
Những người trải qua thời thơ ấu và tuổi trẻ trong kỷ nguyên kỹ thuật số thường không ý thức được về những thời đại xa xưa, những thực tại cổ kính, nói cách khác, là quá khứ. Đối với họ, những thực tại ấy nằm ngoài ngưỡng của những gì đáng để tìm hiểu. Tầm nhìn của họ bị giới hạn trong khoảng cách gần; còn những gì vượt ra ngoài thì trở nên trống rỗng, không đáng để quay về. Thế nhưng, trong truyền thống Do Thái – Kitô giáo, mầu nhiệm Thiên Chúa lại được ban tặng vượt lên trên dòng lịch sử, khi kairos (thời điểm của ân sủng) được dệt vào với chronos (dòng thời gian lịch sử) trong bức tranh của lịch sử cứu độ.
Để khôi phục ý nghĩa cho sự vật, để khai mở từ chúng những khả thể đa dạng trong việc trao ban những tầng nghĩa mới qua tiếp xúc với dòng thời gian và bối cảnh lịch sử, ta cần thực hành một bài tập có tính “tuần hoàn.” Nếu chúng ta không giúp trẻ em và giới trẻ khám phá rằng trong sự lặp lại luôn có điều mới mẻ, thì chúng ta chỉ càng làm gia tăng nơi các em thái độ khinh chê quá khứ, điều bị các em xem là lỗi thời, vô dụng, không còn giá trị, và đáng bị loại bỏ.
Ngược lại, việc lặp lại không phải lúc nào cũng mang ý nghĩa tiêu cực; nó không nhất thiết là hệ quả của thất bại, như khi một người thi trượt ở trường. Việc học đi học lại một bài học nhiều lần là điều cần thiết để con người trưởng thành một cách đúng đắn, để học theo nhịp độ riêng, để ổn định bản thân và tìm được sự cân bằng tốt hơn. Sự lặp lại và kiên trì là những giá trị đáng được khuyến khích; suy cho cùng, chúng hiện diện trong các nghi lễ dân sự, thể thao và tôn giáo, vốn là những gì định hình xã hội chúng ta và trao cho chúng ta một bản sắc riêng.
Tuy nhiên, có một chiều kích trong mối tương quan với quá khứ mà chúng ta không được buông theo, vì nó trở nên lệch lạc khi quá nhấn mạnh khuynh hướng tách rời các biến cố khỏi dòng lịch sử vốn mang lại ý nghĩa cho chúng. Ở đây, chúng ta đang nói đến hoài niệm như một sự biến dạng nguy hại của ký ức. Con “virus” của hoài niệm giam hãm ký ức trong chiếc lồng son tiếc nuối về “những gì đã qua và không còn nữa,” từ đó tạo ra những cảm xúc u sầu và cay đắng, lý tưởng hóa quá khứ và khiến con người không còn khả năng khám phá ý nghĩa của quá khứ cho hiện tại.
Hoài niệm không nhìn lịch sử như người thầy của cuộc sống; trái lại, nó biến lịch sử thành một phòng trưng bày các món đồ cũ kỹ, bụi bặm trong viện bảo tàng, chỉ nhằm gợi lên những cảm xúc về một thời đã mãi trôi qua, mà không ai có thể làm sống lại được. Chúng ta phải chống lại hoài niệm như một mối đe dọa đối với đức tin.
3. Chia sẻ sự thinh lặng và những cử chỉ không cần giải thích
Sự thinh lặng là một trong những thực tại nhân linh có khả năng quy tụ con người lại với nhau, bởi nó hoạt động từ bên trong với một sức mạnh hiệp nhất. Những ai cùng nhau chia sẻ những khoảnh khắc thinh lặng, khi thực sự hiện diện trong đó, sẽ tìm thấy một sự hòa điệu chung. Thinh lặng nuôi dưỡng con người nội tâm của chúng ta mà không phô bày những khác biệt; thực vậy, nó che giấu những khác biệt ấy, bởi nó quy tụ tất cả vào trong chính nó và làm cho việc phân biệt trở nên không thực sự cần thiết. Thinh lặng bao hàm sự hiệp nhất và có ngữ nghĩa riêng của nó, không phụ thuộc vào lời nói. Nhiều khi, ngay cả khi không có gì đặc biệt để nói, những hoạt động như ngủ, chơi đùa, lao động, lắng nghe trong thinh lặng và cùng hiện diện trong một không gian vật lý có thể tạo nên sự hiệp thông đích thực.
Tương tự, những cử chỉ mang tính biểu tượng hay nghi lễ mà chúng ta thấy không nhất thiết phải được giải thích bằng lời: chúng được cảm nhận, được thực hiện, và chỉ đơn giản là được hoàn thành. Một hành động như quỳ gối với đôi mắt nhắm, trong thinh lặng, có thể nói lên nhiều điều hơn bất kỳ lời giải thích nào về cầu nguyện hay chiêm niệm. Nó tự thân mang một ngôn ngữ không lời, và mời gọi người khác bước vào trải nghiệm ấy. Nhiều khi, khao khát muốn giải thích mọi thứ chính là một hình thức của cám dỗ kiểm soát tất cả.
Phương pháp sư phạm của sự thinh lặng và những cử chỉ không lời trong một bối cảnh bị quá tải bởi tiếng ồn và những hành động rỗng tuếch như hiện nay, mở ra một cánh cửa cho đức tin như một khả thể cần được vun trồng. Đức tin được gieo vào linh hồn như một lời ban sự sống đời đời, nếu nó được gìn giữ khỏi những tiếng khóc xúc động mà chúng ta không ngừng bộc lộ trước trẻ em và người trẻ. Họ là những con người, trên hành trình tiến tới sự trưởng thành, rất cần những khoảng thinh lặng đầy ý nghĩa và mang tính cấu trúc trong đó các mối dây liên kết được hun đúc, những khoảng lặng và những cử chỉ sâu sắc gợi lên những câu hỏi về mầu nhiệm của Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm, và giúp họ cảm nghiệm được mầu nhiệm ấy.
4. Nghỉ ngơi khỏi dòng chảy thông tin
Chúng ta cần học cách nghỉ ngơi khỏi tình trạng luôn bị bao vây bởi thông tin. Việc tích lũy dữ liệu khiến ta có cảm giác rằng mình đang được thông tin đầy đủ hay luôn được kết nối, nhưng thực chất lại khiến ta kém thông sáng hơn và giao tiếp kém hiệu quả hơn. Ngày nay, người ta đã bắt đầu nói đến hiện tượng “nhiễm độc thông tin” (infoxication) như một căn bệnh; điều này mời gọi chúng ta phản tỉnh về nhu cầu hình thành nơi mình những thái độ hấp thụ thông tin vừa đủ, ở mức độ thực sự cần thiết cho đời sống.
Trong trường hợp của trẻ em và người trẻ, hoàn toàn có thể xảy ra tình trạng đó là sự ồn ào hỗn loạn của dữ liệu và thông tin chỉ khiến các tiêu chí đánh giá thông tin nơi các em dần phai nhạt. Mọi thứ bị đặt ngang hàng: chiến tranh, chuyện phiếm, tin giả, phân tích, thời trang, thể thao, v.v. Chúng ta đang vô tình dạy các em rằng thông tin luôn ở trong tình trạng dư thừa, và vì thế có lẽ là sai sự thật, vô ích đối với đời sống thực tế.
Thay vào đó, chúng ta cần giúp các em hình thành những phương pháp học tập giúp các em biết chọn lọc và tìm kiếm một cách có suy xét những thông tin thật sự cần thiết, gắn liền với những điều có ý nghĩa đối với chính sự hiện hữu của các em.
Các chương trình giáo dục của chúng ta cũng đang mắc phải cùng một khuyết điểm như tình trạng thông tin bị tước mất trật tự vốn có. Bao năm tháng trên ghế nhà trường bị lấp đầy bằng phương pháp nhồi nhét thông tin, những mảnh kiến thức vụn vặt như những mảnh ghép rời rạc của một bức tranh khảm, rốt cuộc chỉ gây hại cho hành trình tìm kiếm của biết bao bạn trẻ đang thao thức muốn hiểu vì lý do nào họ được sinh ra trong thế giới này.
Đức tin là tin mừng cho đời sống của những ai tin. Vậy làm sao chúng ta có thể đảm bảo đức tin không bị biến thành một mẩu thông tin giữa muôn vàn thông tin khác? Làm sao để những nội dung đức tin có thể được chia sẻ mà không bị rơi vào cùng một “nồi lẩu” thông tin hỗn độn như các thông tin khác? Phải chăng, thực tại tôn giáo sẽ là Tin mừng đích thật nếu được chứng thực bằng đời sống, hơn là chỉ được truyền đạt như một dạng thông tin?
5. Đối xử nhẹ nhàng với sự vật: may vá, hàn gắn, đan dệt
Thế giới của chúng ta là một thế giới đầy bạo lực và chia rẽ. Điều đó không có gì mới. Chúng ta đã quen với việc can thiệp thô bạo vào sự vật, vào chính nội tâm mình; quen với việc phân loại, chia cắt, dựng lên ranh giới, tạo thành các nhóm và phe phái. Chúng ta đối xử tàn nhẫn với thiên nhiên, không ngừng tàn phá và tác động vào nó. Chúng ta đã làm đứt đoạn sợi dây liên kết sự vật với nguồn gốc của chúng, và tuyên bố vô hiệu và vô giá trị về mối tương quan mật thiết trong toàn thể vũ trụ. Chẳng hạn, thực phẩm được sản xuất hàng loạt ngày nay đã mất đi tính thiêng thánh gắn liền với thời gian, điều khiến chúng trở nên khác biệt, độc đáo, có bản sắc riêng, nhưng đồng thời vẫn thuộc về một tổng thể. Cơ chế sản xuất hàng hóa tiêu dùng hàng loạt, khi xóa bỏ mọi nét riêng biệt, khiến các sản phẩm trở nên giống hệt nhau và dường như không có giới hạn về số lượng.
Con người cũng đang bị đối xử theo cách tương tự. Trong các mối tương quan, con người biến nhau thành những đối tượng ít nhiều đáng sợ, có thể bị thao túng và hiếm khi được nhìn nhận như những hữu thể thánh thiêng. Chính vì thế, chúng ta dễ dàng làm tổn thương nhau, và thường gây ra những tổn thương theo cách chính chúng ta đã từng bị tổn thương. Nạn bắt nạt học đường thường là một cuộc chiến âm thầm nhưng khốc liệt, có thể cướp đi mạng sống của những người trẻ không tìm được nơi nương tựa nơi bạn bè, gia đình hoặc nhà trường.
Sự đứt gãy trong mối dây liên kết xã hội chỉ có thể được chữa lành bằng chính kinh nghiệm cá nhân. Sẽ ra sao nếu mỗi người trong chúng ta, trong một tuần sống, dành ra một khoảnh khắc nhỏ để hàn gắn một điều gì đó đã vỡ, đến mức làm cho nó trở nên mới mẻ? Hoặc khâu lại một vết thương đang còn hở? Chúng ta có quá nhiều trải nghiệm nhằm chia rẽ, phá vỡ, công kích trong khi lại có quá ít kinh nghiệm nhắm đến việc chữa lành, phục hồi, tái tạo hay hòa giải.
Liên quan đến các cử hành phụng vụ, một số phương pháp giáo lý – mang dấu ấn của việc tìm kiếm sự gần gũi, có lẽ như một phản ứng lại trước sự xa cách thái quá – đã vô tình làm mất đi sức hấp dẫn của các cử hành phụng vụ, lấy đi nét huyền nhiệm vốn bao bọc chúng.
Cũng đã xảy ra tình trạng mối tương quan giữa các thừa tác viên với điều thánh thiêng trở nên trần tục, hoặc quá kiểu cách, câu nệ hình thức. Chính những điều đó làm sai lệch đi sự thân mật với mầu nhiệm của vạn vật, tạo nên một mối tương quan lệch lạc, điều vốn xa lạ với thế giới nội tâm của trẻ thơ, nơi luôn rộng mở trước những điều kỳ diệu.
Việc giáo dục đức tin luôn phải dẫn đến sự huyền nhiệm, một phương pháp sư phạm mầu nhiệm, là hành trình tìm kiếm con đường khai tâm vào những thực tại thiêng liêng.
6. Trở nên một thân thể với tha nhân, gắn kết
Đại dịch đã buộc thân xác phải rút lui. Thân xác bị cô lập và, theo một nghĩa nào đó, bị ẩn đi. Khi nói đến “thân xác”, ta muốn nói đến sự hiện diện của con người. Chính nhờ thân xác và những biểu hiện của nó mà chúng ta thiết lập mối tương quan với thế giới và với tha nhân.
Trải nghiệm bị giam mình trong thời gian đại dịch đã tạo ra một hình thức hiện diện mới, một hình thức có thể hiện diện mà không cần đến thân xác. Các nền tảng truyền thông kỹ thuật số giúp chúng ta hiện diện với nhau, tốt nhất là trên bình diện chủ ý, nhưng dạng hiện diện ấy không thể kéo dài lâu. Trong thời gian chờ cho tới khi chúng ta có thể gặp lại nhau, thì chúng ta chỉ có thể hiện diện qua kỹ thuật số với những người mà chúng ta mong được hiện diện thật sự trong hiện thực. Tuy nhiên, đối với trẻ em và thanh thiếu niên, sự hiện diện qua màn hình không được cảm nhận như một “sự mở rộng” của sự hiện diện thể lý của chúng trong không gian kỹ thuật số bởi những phương tiện được sử dụng theo sự chủ ý.
Theo thời gian, chúng ta đã dần trở nên “hiện diện” nhiều hơn và trở lại với một hình thức bình thường mới; tuy nhiên, sự dè dặt, e ngại khi hiện diện trước người khác, sự khó khăn trong việc chịu trách nhiệm cho lời mình nói vì không đối diện trực tiếp với tha nhân, cũng như khuynh hướng hiểu người khác như một “liên hệ” hay một “hồ sơ kỹ thuật số” hơn là một nhân vị thật sự, tất cả những điều ấy đã khiến nhiều người đánh mất khả năng bước vào trong các mối tương quan đích thực.
Chúng ta vẫn chưa xây dựng được những phương pháp sư phạm cần thiết để củng cố mối dây liên kết lành mạnh với những người không phải là “chúng ta”, nhưng lại góp phần hình thành nên chính con người chúng ta, bởi lẽ họ phản chiếu chính chúng ta. Sự phản chiếu này, vốn là điều mà mọi chủ thể đều cần đến chỉ có thể xảy ra khi có sự hiện diện thể lý của tha nhân.
Đối với đức tin, thân thể là chính Đức Kitô, thân thể ấy được tìm thấy nơi anh chị em đồng loại của chúng ta. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu đức tin chỉ mang tính thiêng liêng thuần túy? Khi ấy, nó chẳng là gì khác ngoài việc tìm kiếm sự thoải mái nội tâm như một món hàng tiêu dùng có thể có được qua một trải nghiệm đặc biệt nào đó. Nhưng Kitô giáo tìm thấy ơn cứu độ cá nhân nơi tha nhân. Thiên Chúa ưa thích dùng những trung gian, Ngài nhập thể để có thể chạm đến tâm hồn con người cách cụ thể. Thân thể của Đức Kitô chính là cộng đoàn, là mối dây liên kết, là sự hiệp thông và hòa điệu trong tình yêu, điều chỉ có thể được thực hiện qua kinh nghiệm hiện diện và sống cùng nhau. Việc Thiên Chúa nhập thể nơi Đức Giêsu được nên trọn nơi cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người, và nhờ đó ‘Kitô hóa’ mọi thực tại.
7. Kể chuyện – Học cách thừa hưởng một truyền thống
Kitô giáo là một câu chuyện sống động được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác qua việc thuật lại những gì Thiên Chúa đang thực hiện nơi chúng ta qua Thánh Thần của Ngài. Chúng ta cần giúp trẻ em và người trẻ biết kể lại câu chuyện đời mình, biết liên kết các biến cố trong cuộc sống, biết tìm ra những ẩn dụ và hình ảnh thích hợp để kể câu chuyện cuộc đời của họ, bởi chính nhờ đó họ sẽ ngày càng phát triển khả năng giải nghĩa cuộc sống.
Lối truyền đạt tối giản dưới dạng các thông điệp đóng gói sẵn được chuyển thành biểu tượng, hình dán (sticker) và biểu cảm (emoticon) cùng với khả năng tua nhanh tin nhắn thoại trên WhatsApp hoặc xóa đi điều đã nói, tạo ra sự bất ổn trong giao tiếp. Những hình thức này không bảo đảm người nhận sẽ hiểu đúng điều được truyền đạt. Trái lại, chúng đặt nội dung vào sự lệ thuộc của một tông giọng giả định nào đó, vào sự phi đồng bộ trong thời gian, và vào việc vắng mặt của thân xác người tiếp nhận, chính thân xác ấy, qua cử chỉ và cảm xúc, mới hoàn tất trọn vẹn quá trình truyền thông.
Nghịch lý thay, việc thu nhỏ nội dung thông điệp lại va chạm với sự gia tăng số lượng của việc nhắn tin. Từ hầu hết mọi nền tảng, người ta có thể gửi tin nhắn trực tiếp. Chúng ta có thể nhân lên vô số cuộc trò chuyện theo ý muốn. Điều này khiến ta tưởng rằng mình đang giao tiếp rất nhiều, nhưng trên thực tế, có lẽ ta chỉ đang xử lý thư từ một cách máy móc.
Truyền thống Kitô giáo là một di sản sống động, và sẽ luôn sống động nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, sứ mạng tìm gặp Thiên Chúa trong mọi sự và nhận ra mọi sự trong Ngài lại diễn ra trong khuôn khổ của một lịch sử cứu độ được Thiên Chúa hướng dẫn. Nếu chúng ta không giúp trẻ em và người trẻ phát triển những chiến lược truyền thông phù hợp để trở thành những người tiếp nhận thông điệp cách chủ động, thì cuối cùng chúng ta sẽ chỉ nói chuyện với chính mình mà thôi.
8. Đặt “cái tôi” trong một “chúng ta” – tính thuộc về
Nhu cầu khôi phục chiều kích tương quan và trả lại cho chúng chiều sâu vốn có phát xuất từ xác tín rằng không hề có một “cái tôi” thuần túy ngay từ bản chất, rồi sau đó mới bước vào mối tương quan với người khác. Căn tính chủ thể của chúng ta được hình thành nhờ tương quan.
Việc tôn vinh cái tôi, một cám dỗ không ngừng đeo bám chúng ta, hủy hoại “chúng ta” và làm đứt gãy những mối dây xã hội, đến mức giam giữ mỗi người trong thế giới riêng của mình, nơi chỉ có những quy luật chủ quan ngự trị. Chỉ có một “chúng ta” mới có thể cứu chúng ta khỏi bi kịch của một cái tôi phóng đại quá mức.
Vì thế, chúng ta phải nuôi dưỡng những gì có thể kiến tạo cộng đoàn: những mối dây liên kết, những cuộc gặp gỡ, và những câu chuyện chung. Đức tin Kitô giáo là một đức tin mang chiều kích cộng đoàn, chứ không đơn độc. Người ta lãnh nhận đức tin từ cộng đoàn, và được biến đổi nhờ chính hành động định hình mà cộng đoàn ghi khắc nơi mỗi người, giúp họ mở lòng và mời gọi họ dấn thân vào việc trao ban chính mình.
Chúng ta phải thi hành sứ mạng giải trừ quyền lực của cái tôi, để nó có thể khám phá các mối tương quan với tha nhân. Chỉ bằng cách ấy, Chúa Kitô mới có thể chiếm giữ vị trí trung tâm sống động trong những chọn lựa cá vị của chúng ta, những chọn lựa vốn không bao giờ mang tính cá nhân đơn lẻ, nhưng luôn được thực hiện trong cộng đoàn, cộng đoàn đó nâng đỡ từng người trong sự độc đáo và duy nhất của họ.
9. Đừng cố biết hết mọi sự, hãy dành chỗ cho mầu nhiệm
Chủ nghĩa bách khoa toàn thư vẫn còn tồn tại trong khát vọng kiểm soát thực tại thông qua tri thức, đã gây tác hại không nhỏ đối với việc truyền đạt đức tin, đặc biệt trong xã hội hiện đại. Một đặc điểm riêng biệt của thời đại này là người ta không chỉ muốn biết, hay hiểu sâu một vài thực tại nào đó, mà còn muốn biết mọi thứ. Những sự nhạy cảm đương thời không chấp nhận giới hạn, ranh giới, sự hữu hạn. Thế giới kỹ thuật số, vốn vượt qua giới hạn của thời gian và không gian vật lý, dường như mở ra hình thức mới của ranh giới kỹ thuật số linh hoạt hơn và khó nắm bắt hơn. Điều này tạo nên cảm giác rằng một không gian gần như vô hạn của vạn vật đang mở ra cho khát vọng của con người.
Khả năng nhận biết chính mình là hữu hạn cho thấy vị trí thích đáng để chúng ta tương quan với mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nếu đánh mất việc đặt mình trong sự nhỏ bé của thân phận làm người, thì sự kinh ngạc trước sự bao la vô biên của Thiên Chúa cũng dần phai nhạt.
Nền sư phạm của sự kinh ngạc nhắm đến việc giúp cho sự giới hạn của chúng ta không trở thành một chướng ngại gây thất vọng, nhưng đúng hơn, trở thành một bàn đạp để hướng tới Đấng khôn tả, Đấng huyền nhiệm, Đấng vô hình nhưng nâng đỡ và duy trì sự hiện hữu của chúng ta.
10. Cắt đứt, khép lại, kết thúc
Yếu tố sau cùng này mời gọi chúng ta học cách nói lời chia tay, bắt đầu một trang mới, biết tôn trọng những chu kỳ của cuộc sống – điều mà con người thời nay đã quen thay đổi và can thiệp, chẳng hạn như từ khi điện năng bước vào đời sống hiện đại. Ở đây, không phải là để khinh chê những tiến bộ của khoa học, nhưng là để cân nhắc xem mỗi tiến bộ ấy thực sự giúp chúng ta sống tốt hơn đến mức nào.
Trẻ em và người trẻ cần được giúp đỡ để trải nghiệm tính mong manh của từng giai đoạn sống, để biết vui mừng về những biến cố quan trọng của cuộc đời bằng việc học cách nhận ra khi nào một điều gì đó đã kết thúc, biết nói lời tạm biệt với người đã qua đời, và buông bỏ một cách lành mạnh những gì không còn thuộc về hiện tại.
Nếu không, những tàn dư, những điều còn dang dở sẽ tồn đọng lại như một nghiệp chưa dứt, đòi hỏi chỗ đứng trong những lúc yếu đuối hay không chắc chắn, rồi quay lại chất vấn tất cả mọi thứ.
Và vì tính lỏng lẻo là khuynh hướng đặc trưng của các thế hệ mới, nên thứ tính toàn năng trẻ con trong họ dễ bị thách thức và không sẵn lòng buông bỏ bất cứ điều gì, để rồi nghịch lý thay, họ lại không giữ được điều gì cả: sự trống rỗng của một đời sống không có quyết định.
Đức tin cần được phát triển, và điều đó chỉ có thể xảy ra nếu chúng ta bước qua một giai đoạn, kết thúc nó, buông bỏ nó, và không kỳ vọng, khi ngoảnh lại, những gì đã qua sẽ có thể quay lại, hay nó có thể được cố định một cách kỳ diệu tại một điểm chết, không còn sự sống. Cuộc sống đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa, chọn điều mà chúng ta cảm nhận là của riêng mình, là điều Thiên Chúa mời gọi ta sống. Nhưng chúng ta không thể đưa ra một chọn lựa tích cực nếu không có sự cắt đứt và từ bỏ. Sau cùng, nếu không có sự chết, thì cũng sẽ không có sự phục sinh.
Chuyển dịch: Hoài Ân
Từ nguồn: La Civiltà Cattolica
Để lại một phản hồi