

Một điều có thể chúng ta không nhận thấy là (hơn) năm mươi năm đã trôi qua kể từ khi Đức Giáo hoàng Phaolô VI phê chuẩn sách bài đọc Thánh lễ mới cho phụng vụ Công giáo vào ngày 3 tháng 4 năm 1969, đáp lại yêu cầu của các giám mục tại Công đồng Vatican II về việc có nhiều bài đọc Kinh thánh hơn trong Thánh lễ. ‘Hiến chế về Phụng vụ Thánh’ của Công đồng chỉ đạo rằng: “Để bàn tiệc Lời Chúa được thêm phong phú cho các tín hữu, phải mở rộng hơn nữa kho tàng Thánh Kinh, sao cho trong một số năm nhất định nào đó, dân chúng được nghe phần nội dung tiêu biểu nhất trong Thánh Kinh” (Sacrosanctum Concilium, § 51) Sách bài đọc được phê chuẩn trong Tông hiến Missale Romanum bắt đầu được sử dụng vào ngày 30 tháng 11 năm 1969. Chúng ta vẫn sử dụng nó cho đến nay.
Ta có thể lưu ý đến hai cải tiến của nó. Đầu tiên là việc đưa “thánh vịnh đáp ca” như một lời đáp cho bài đọc thứ nhất, trước đây được gọi là thánh thư (epistle). Điều này hiện đã được biết đến rộng rãi và được coi là điều hiển nhiên. Cải tiến thứ hai là bổ sung bài đọc thứ hai vào các ngày Chúa Nhật và lễ trọng, được chọn từ các thư Tân Ước, công bố trước Tin Mừng. Có thể nói rằng cải tiến này ít thành công hơn. Hãy hỏi giáo dân sau Thánh lễ Chúa Nhật về chủ đề và tác giả của bài đọc thứ hai, và nhiều người thừa nhận rằng họ không thể trả lời. Trong bài viết này, chúng tôi muốn xem xét các bài đọc thứ hai được tuyển chọn từ các thư của Thánh Phaolô trong năm thứ ba của chu kỳ Chúa Nhật Mùa Chay. Chúng tôi tin rằng đây là một kho báu cung cấp nguồn dinh dưỡng dồi dào để chuẩn bị Lễ Phục sinh.
Trước tiên, chúng ta nhận thấy rằng bài đọc thứ hai các Chúa Nhật Mùa Chay này được chọn theo một hệ thống khác so với chu kỳ “Các Chúa Nhật Thường niên”. Trong chu kỳ thường niên, các thư này được đọc ‘bán liên tục’, để một nhà giảng thuyết có thể trình bày một bức thư cụ thể trong thời gian nhiều tuần. Ví dụ về điều này là việc sử dụng Thư thứ nhất của Phaolô gửi cho tín hữu Côrintô trong các Chúa Nhật đầu tiên trong chu kỳ thường niên. Trong năm A, chúng ta nghe các đoạn trích từ chương 1-4; trong năm B, chúng ta nghe các đoạn trích từ chương 5-10; và trong năm C, từ chương 11-15. Các bài đọc này khác với đoạn văn Cựu Ước được sử dụng làm bài đọc thứ nhất và từ Tin Mừng. Chúng được trình bày như một bài đọc khác hơn là bài bổ sung cho các bài đọc này. Trong Mùa Chay, mọi thứ đã khác. Bài đọc thứ hai được thiết kế như một phần giới thiệu và thậm chí là một lời chú giải cho bài đọc Tin Mừng. Chúng giúp hiểu bài Tin Mừng ở cấp độ sâu hơn.
Các bài đọc Tin Mừng Năm C này được trích từ Tin Mừng Luca, ngoại trừ đoạn về người phụ nữ ngoại tình được trích từ Tin Mừng Gioan vào Chúa Nhật V. Tuy nhiên, vì đoạn này không có trong nhiều bản thảo đầu tiên của Tin Mừng Gioan, nên người ta thường cho rằng đoạn này là của Luca. Khi chuẩn bị cho Lễ Phục sinh, chúng ta có thể tìm thấy giáo lý Mùa Chay trong các bài đọc của Thánh Phaolô, song song với các bài đọc Tin Mừng. Vào Chúa Nhật I, chúng ta lắng nghe Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma và tuyên xưng đức tin vào “Vương quyền” của Đức Giêsu. Vào Chúa Nhật thứ II, khi nghe Thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê, chúng ta suy ngẫm về phẩm giá của chính mình như những con người được Chúa biến đổi. Vào Chúa Nhật III, với sự trợ giúp của Thư thứ nhất của Thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô, chúng ta suy tư về nhu cầu ăn năn sám hối của mình. Vào Chúa Nhật IV, chúng ta đồng nhất mình với Thánh Phaolô trong Thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô với tư cách là những thừa tác viên hòa giải. Vào Chúa Nhật V, một lần nữa quay lại với Thư gửi tín hữu Philipphê, chúng ta nhìn đến tương lai và phần thưởng sự sống trong Đức Kitô. Vào Chúa Nhật Thương Khó, Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Chay, chúng ta có cơ hội lắng nghe và đón nhận bài thánh ca được gọi là ‘kenosis‘ (κένωσις – tự hủy) trong Thư gửi tín hữu Philipphê, như một sự chuẩn bị cho lời công bố long trọng về Cuộc Thương Khó của Chúa. Chúng ta hãy suy ngẫm về những đoạn văn này của Thánh Phaolô một cách chi tiết hơn một chút.
Đức tin
Vào Chúa Nhật I Mùa Chay, chúng ta nghe trích đoạn Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma. Thánh Phaolô đang đấu tranh với vấn đề là rất nhiều người cùng tôn giáo với ngài (Do Thái giáo) đã không nhận ra và chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Messiah của họ. Trong đôi câu mà chúng ta nghe ngày hôm nay (Rm 10, 8-13), Thánh Phaolô, với tư cách là một thành viên trung thành của dân tộc mình, đã nhờ đến sự giúp đỡ của những lời ông Môisê được tìm thấy trong sách Đệ Nhị Luật cùng với các đoạn trích từ các tiên tri Isaia và Gioen. Quan điểm của ngài rất đơn giản. Trong thời đại giao ước mới này của Thiên Chúa với dân Người, lời tuyên xưng cần thiết cho những người đang tìm kiếm ơn cứu độ (một từ được lặp lại ba lần) rất là đơn giản: Họ chỉ cần tuyên xưng rằng ‘Đức Giêsu là Chúa’; họ phải tin trong lòng rằng ‘Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại từ cõi chết’. Đó là lời tuyên xưng mang lại sự cứu rỗi dành cho tất cả mọi người.
Lời tuyên xưng này chuẩn bị cho chúng ta lắng nghe câu chuyện Tin Mừng về những cám dỗ của Đức Giêsu, trong đó Đức Giêsu bị Satan cám dỗ ba lần, đã lấy lời của Đệ Nhị Luật làm của riêng mình, rằng “con người không chỉ sống bằng cơm bánh“, rằng “ngươi phải thờ phượng Chúa là Thiên Chúa ngươi”, rằng “ngươi không được thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi” (Lc 4, 1-13). Vào đầu Mùa Chay này, cùng với Thánh Phaolô, chúng ta tuyên xưng đức tin cơ bản của mình: Chúa Giêsu cũng làm như vậy trong cuộc xung đột với Satan trong hoang mạc vào những ngày trước khi Người bắt đầu sứ vụ công khai của mình.
Đức cậy
Vào Chúa Nhật II Mùa Chay, chúng ta chuyển từ “sa mạc” cám dỗ đến “ngọn núi” biến hình. Thánh Phaolô giúp ta chuẩn bị điều này bằng một trích đoạn từ Thư gửi tín hữu Philipphê (Pl 3, 17 – 4, 1). Từ khóa ở đây là sự “biến đổi”, đôi khi được dịch là ‘biến hình’. Trong thư của mình, Thánh Phaolô sử dụng một số ẩn dụ để diễn tả ý nghĩa của việc chúng ta chia sẻ cái chết và sự phục sinh của Chúa. Đây là một trong số đó. Nhà thơ La tinh Ovid đã viết một tập thơ có tựa đề ‘metamorphoses‘, kể lại một loạt các huyền thoại về những nam nữ anh hùng đã thay hình đổi dạng. Có rất nhiều câu chuyện bình dân vào thời đó về các thần thánh đã mang hình dạng con người và về con người mang hình dạng động vật.
Trong câu chuyện Tin Mừng, chúng ta nghe về việc ngay cả trong cuộc sống trần thế của mình, Đức Giêsu đã biến hình trước sự chứng kiến của ba môn đệ lãnh đạo trên một ngọn núi vô danh ở Galilê. “Diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng” (Lc 9, 28-36). Nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, Phaolô đảm bảo với những người cải đạo của mình tại thành phố Philipphê của Hy Lạp này rằng ‘Đức Giêsu Kitô sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người”. Lời nhắc nhở này về số phận vinh quang của chính chúng ta, và hình ảnh Đức Giêsu phản chiếu vinh quang của Ngài, nhắc nhở rằng Mùa Chay là thời gian thắp lại niềm hy vọng của chúng ta. Nếu vào Chúa Nhật đầu tiên, chúng ta cầu nguyện để gia tăng đức tin, thì vào Chúa Nhật II này, chúng ta cầu nguyện để niềm hy vọng (Đức cậy) của mình sâu sắc hơn.
Ăn năn
Vào Chúa Nhật III của Mùa Chay, chúng ta nghe từ lá thư thứ ba của Thánh Phaolô: Thư thứ nhất của ông gửi cho tín hữu Côrintô. Chúng ta có thể khá ngạc nhiên trước sự táo bạo trong hình ảnh của Phaolô. Ông nhớ lại truyền thống của Môisê lấy nước từ một tảng đá cho dân chúng đang khát của mình trong chuyến hành trình qua sa mạc. “Tảng đá là Đức Kitô” (1 Cr 10, 1-6, 10-12)! Ý của Phaolô là Chúa đang hướng dẫn dân Ngài. Ngài đã nuôi họ bằng manna và ban cho họ nước từ tảng đá. Nhưng bất chấp tất cả những điều này, dân chúng “đã không làm đẹp lòng Chúa” và vì vậy “xác chết của họ nằm rải rác trong sa mạc”. Phaolô nêu rõ quan điểm của mình. Số phận của họ là một lời cảnh báo cho những người bê tha và tội lỗi trong số những người cải đạo ở cộng đoàn Côrintô, những người đã được rửa sạch trong nước rửa tội.
Lời kêu gọi ăn năn hoán cải của Phaolô báo trước lời kêu gọi tương tự mà Đức Kitô đã kêu gọi đám đông trong bài đọc Tin Mừng Luca (Lc 13, 1-9: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”). Hôm nay, chúng ta tự nhắc nhở mình rằng Mùa Chay là thời gian ăn năn hối cải, một thách thức đối với chúng ta để từ bỏ tội lỗi và thói quen xấu xa, và chúng ta có thể áp dụng nó cho chính mình khi cùng với Phaolô, chúng ta nhớ lại những sự kiện kịch tính trong lịch sử cứu độ. Phẩm chất đức tin và sự vững chắc của đức cậy (hy vọng), mà chúng ta đã nhấn mạnh vào hai Chúa Nhật trước, dựa trên tinh thần ăn năn hối cải thực sự.
Giao hòa
Vào Chúa Nhật IV Mùa Chay, chúng ta nghe một trong những dụ ngôn nổi tiếng và được yêu thích nhất của Đức Giêsu, dụ ngôn về người cha có hai người con trai, được biết đến nhiều nhất là Dụ Ngôn Người Con Hoang Đàng (Lc 15, 1-3.11-32). Một lần nữa, chúng ta được mời chuẩn bị cho điều này bằng cách đọc một đoạn trích từ Thánh Phaolô. Lần này, chúng ta chuyển sang Thư thứ hai của Thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô (5, 17-21). Một từ khóa, được lặp lại năm lần trong bản dịch của chúng ta, là sự “giao hòa”. Đức Kitô đã làm gì khi chết trên thập tự giá và sống lại từ ngôi mộ? Chúng ta đã biết vào một Chúa Nhật trước đây rằng Ngài đang biến đổi chúng ta. Bây giờ chúng ta biết rằng Ngài đang giao hòa chúng ta. Trên thực tế, Thánh Phaolô nói thêm, Ngài đang tạo dựng chúng ta một lần nữa, bởi vì “nếu ai ở trong Ðức Kitô, thì người đó sẽ là một thụ tạo mới”.
Giáo huấn này của Thánh Phaolô chuẩn bị cho chúng ta về sự giao hòa liên quan đến Tin Mừng khi người cha của đứa con hoang đàng ra lệnh: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu”. Phaolô nói rằng tất cả những điều này đều có thể xảy ra, vì “Ðấng không hề biết tội, thì Thiên Chúa làm nên thân tội vì chúng ta”. Chân lý này cung cấp cho chúng ta nền tảng giáo lý cho giáo huấn và hành vi của Đức Giêsu, được minh họa trong các dụ ngôn Tin Mừng như dụ ngôn mà chúng ta nghe vào Chúa Nhật IV Mùa Chay. Là một giáo hội ăn năn được thành lập trên đức tin vững chắc và đức cậy vững vàng, chúng ta được triệu tập để hiệp nhất với Đức Kitô và chính Thánh Phaolô, và thực hiện chức vụ hòa giải trong một thế giới được đánh dấu với rất nhiều chia rẽ.
Tương lai
Bài đọc Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay kể cho chúng ta câu chuyện về Đức Giêsu và Người Phụ Nữ Ngoại Tình Bị Bắt Quả Tang (Ga 8, 1-11). Để chuẩn bị cho điều này, chúng ta quay lại Thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê (3, 8-14). Đây là một trong những đoạn hiếm hoi trong các thư của Phaolô mà ngài viết về chính mình. Thính giả của ngài hẳn đã quen thuộc với các cuộc thi đấu thể thao thời bấy giờ như Thế vận hội Isthmian. Ngài so sánh hoạt động của chính mình trước khi quay về với Đức Kitô như một cuộc đua, một cuộc đua để bách hại các Kitô hữu. Nhưng trước khi đạt được mục tiêu chiến thắng, ngài đã bị Chúa Kitô vượt qua và hơn thế nữa, coi mọi thứ mà ngài đã phấn đấu trước đây chẳng khác gì rác rưởi. Ngài đã bị Đức Kitô chiếm lấy, một danh hiệu mà ngài nhắc lại đến sáu lần trong đoạn văn của chúng ta. Chắc chắn rằng ngài đã quyết tâm không phạm tội nữa.
Phaolô có thể được coi là hình mẫu cho người phụ nữ tội lỗi trong Tin Mừng, người được Đức Giêsu bảo rằng “đừng phạm tội nữa“. Với Phaolô trong Thư Philípphê, chúng ta “quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước“. Với ngài, chúng ta “nhận biết Đức Kitô và quyền năng phục sinh của Ngài“. Những cuộc gặp gỡ của riêng chúng ta với Đức Kitô, Chúa chúng ta, mang lại cho chúng ta sự tự tin để tiến bước trong thế giới ta đang sống, như những người có đức tin và niềm hy vọng vào sự tha thứ của Chúa.
Quỳ gối
Vào Chúa Nhật Thương Khó (Lễ Lá), Chúa Nhật khởi đầu Tuần Thánh, chúng ta lắng nghe và tham dự long trọng khi đọc Bài Thương Khó, năm nay theo Thánh Luca (22, 14-23:56). Phaolô giúp chúng ta chuẩn bị cho trải nghiệm này bằng nhiều câu trong Thư gửi tín hữu Philipphê. Trong hầu hết bức thư này, Phaolô viết tích cực về những người cải đạo của mình ở Philipphê; họ là ‘niềm vui’ và ‘vinh dự’ của ngài, ‘những người yêu dấu’ của ngài (4, 1), nhưng trong chương thứ hai của mình, ngài đối mặt với những điều xấu xa làm tha hóa cộng đoàn, sự ích kỷ và tự phụ của một số thành viên trong cộng đoàn.
Nhìn chung, với tư cách là một mục tử, Thánh Phaolô đã giải quyết những vấn đề mà ngài gặp phải bằng cách gợi đến thần học. Nhân dịp này, ngài đã đưa vào một bài thánh ca mà có lẽ độc giả của ngài đã biết về sự “tự hủy” cần thiết để giải quyết tính ích kỷ và tự phụ. Ví dụ tốt nhất mà ngài có thể đưa ra về sự “tự hủy” (kenosis trong tiếng Hy Lạp) là chính Đức Kitô. Điều này diễn ra trong ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là phẩm giá của Đức Kitô như một đấng đã tồn tại từ trước và ngang hàng với Thiên Chúa. Giai đoạn thứ hai là sự chấp nhận của Ngài đối với tình trạng con người và sự sỉ nhục khi chịu hấp hối của cái chết trên thập tự giá. Giai đoạn thứ ba là được Thiên Chúa tôn vinh, đem đến cho Ngài sự tôn kính của toàn thể tạo vật. Những gì tiên tri Isaia đã viết từ lâu về Thiên Chúa rằng “mọi đầu gối phải quỳ xuống” (Is 45, 23), giờ đây được áp dụng trong bài thánh ca dành cho Đức Giêsu sau khi Ngài được tôn vinh qua sự phục sinh (Pl 2, 6-11).
Suy ngẫm nghiêm túc về ‘bài thánh ca kenosis’ này chắc chắn sẽ chuẩn bị cho chúng ta một phản ứng hiệu quả đối với câu chuyện Thương Khó. Mong rằng trích đoạn thư Philipphê này chứng minh một đỉnh cao thích hợp cho sáu đoạn văn ngắn từ thư của Thánh Phaolô được cung cấp cho chúng ta như một mẫu kho báu mà Sách bài đọc, hiện đã (hơn) năm mươi năm tuổi, cung cấp cho chúng ta ‘tại bàn tiệc Lời Chúa’. Nhờ chúng, mong rằng chúng ta sẽ “nhận biết Đức Kitô và quyền năng phục sinh của Người” (Pl 3, 10) rõ ràng hơn vào mùa Phục sinh.
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Chuyển ngữ từ: thinkingfaith.org 06/3/2019)
Nguồn: gpquinhon.net
Để lại một phản hồi