Trong dịp cử hành Năm thánh dành cho các nhóm hiệp hành và cơ cấu tham gia với chủ đề: “Những người lữ hành của niềm hy vọng”, vào chiều ngày 24/10/2025, Đức Thánh cha Lêô XIV đã có cuộc gặp gỡ với khoảng hai ngàn tham dự viên là thành viên các nhóm hiệp hành và các tổ chức tham gia đến từ khắp năm châu. Sau đây là toàn văn các câu hỏi của các tham dự viên và các câu trả lời của Đức Thánh cha Lêô XIV về tính hiệp hành trong Giáo hội.DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH GIÁO HOÀNG LÊÔ XIV
GỬI CÁC THAM DỰ VIÊN TRONG DỊP CỬ HÀNH NĂM THÁNH CHO CÁC NHÓM HIỆP HÀNH VÀ CÁC TỔ CHỨC THAM GIA
Hội trường Phaolô VI
Thứ Sáu, ngày 24 tháng 10 năm 2025
Câu hỏi 1:
Trong giai đoạn thực hiện, các Giáo hội địa phương, đặc biệt là tại châu Phi, có thể vừa đón nhận sự nâng đỡ từ toàn thể Giáo hội, vừa trở nên nguồn cảm hứng cho toàn thể Hội thánh như thế nào, để tất cả chúng ta có thể cùng nhau tiến bước trong tinh thần “trao đổi hồng ân”, tôn trọng nguyên tắc bổ trợ trong việc phân định ở cấp địa phương, không áp đặt những mô hình đồng nhất, cũng không làm suy yếu sáng kiến của từng địa phương?
Đức Thánh Cha:
Cảm ơn cha rất nhiều về những gì mà cha đã chia sẻ liên quan đến công cuộc hiệp hành tại châu Phi. Trước hết, tôi muốn gửi lời chào đến tất cả anh chị em. Chào buổi tối! Buenas tardes!
Tôi nghĩ rằng từ đầu tiên tôi muốn nói – không chỉ dành cho Giáo hội tại châu Phi mà cho tất cả chúng ta tối nay – chính là sứ vụ, và việc trở thành nhà truyền giáo. Tiến trình Thượng Hội đồng, như Đức Thánh cha Phanxicô đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta, được khởi xướng nhằm giúp Giáo hội chu toàn vai trò nền tảng của mình trong thế giới hôm nay, đó là trở nên một Giáo hội truyền giáo: loan báo Tin mừng và làm chứng cho Đức Giêsu Kitô nơi mọi miền đất, cho đến tận cùng trái đất. Nói theo ngôn ngữ của Tin mừng thì đó là rao giảng, chia sẻ và sống những gì Đức Giêsu đã dạy.
Trong ý nghĩa này, tôi nghĩ rằng Giáo hội tại châu Phi có rất nhiều điều để trao tặng cho tất cả chúng ta. Những gì cha nói về tiến trình hiệp hành giúp chúng ta xây dựng những nhịp cầu và hiểu rõ hơn cách mà Giáo hội có thể trở thành chiếc cầu nối, đặc biệt trong những nền văn hóa nơi người Kitô hữu không chiếm đa số và thường sống bên cạnh các tín đồ của những tôn giáo khác, dù là truyền thống bản địa hay các tôn giáo lớn như Hồi giáo. Điều đó nhắc chúng ta rằng, những hoàn cảnh như thế vừa là thách đố, nhưng đồng thời cũng là cơ hội quý giá.
Điều mà hầu hết chúng ta đã trải nghiệm trong những năm vừa qua khi chuẩn bị cho Thượng Hội đồng, và giờ đây khi bước vào giai đoạn mới của việc thực thi, chính là điều cha vừa nói: Hiệp hành không phải là một chiến dịch, mà là một lối sống, một cách hiện hữu của Giáo hội. Đó là một thái độ được nuôi dưỡng bắt đầu bằng việc học biết lắng nghe nhau.
Ân ban của việc lắng nghe là điều mà tôi nghĩ tất cả chúng ta đều công nhận, dù rằng trong một số lĩnh vực của Giáo hội, ân ban này đã bị phai nhạt. Chúng ta cần tiếp tục khám phá giá trị của việc lắng nghe, bắt đầu từ việc lắng nghe Lời Chúa, lắng nghe nhau, và lắng nghe sự khôn ngoan được tìm thấy nơi con người, ở cả nơi những thành viên của Giáo hội, lẫn nơi những ai đang tìm kiếm chân lý, cho dù họ chưa hoặc có thể sẽ không bao giờ trở thành người Công giáo.
Trong bối cảnh châu Phi, có những vấn đề và thực tại đặc thù vừa là thách đố vừa là hồng ân, chẳng hạn như người trẻ. Khi so sánh giữa châu Âu và châu Phi, ta thấy một châu lục đang dần già đi, trong khi châu lục kia lại tràn đầy sức sống mới, tuổi trẻ và sinh lực dồi dào cho Giáo hội. Bên cạnh đó là hồng ân của gia đình, vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng. Giáo hội được mời gọi tiếp cận con người qua giới trẻ và các gia đình, trở nên dụng cụ kiến tạo hòa bình, đồng thời đưa ra những mẫu gương, không chỉ ở châu Phi, giữa các quốc gia Phi châu với nhau, mà còn giữa các nước và các châu lục trong những lĩnh vực như thúc đẩy hòa bình, bảo vệ công trình tạo dựng, và nhiều lãnh vực khác.
Theo nghĩa đó, chúng ta cần khẳng định thật rõ ràng: chúng ta không tìm kiếm một mô hình đồng nhất, và sẽ không đưa ra một khuôn mẫu buộc mọi quốc gia phải làm theo. Trái lại, điều chúng ta đang nói đến là một sự hoán cải nội tâm để sống tinh thần của Giáo hội, một Giáo hội truyền giáo, xây dựng gia đình của Thiên Chúa.
Xin cảm ơn.
Câu hỏi 2:
Vai trò của các nhóm hiệp hành cấp châu lục đã được nhấn mạnh trong suốt hành trình Thượng Hội đồng, đặc biệt trong giai đoạn thực hiện. Đức Thánh Cha có nhận thấy rằng vai trò của các nhóm Giáo hội – chẳng hạn như các hội đồng giám mục châu lục, các hội đồng giám mục quốc gia hoặc khu vực, và các giáo tỉnh – sẽ tiếp tục được củng cố và phát triển trong đời sống của Giáo hội không?
Đức Thánh Cha:
Trước hết, cho phép tôi gửi lời chào đến tiến sĩ Susan. Trong kỳ họp Thượng Hội đồng vừa qua, tôi và bà cùng ngồi chung một bàn, và thật là tốt đẹp khi hôm nay lại được đồng hành cùng bàn với bà lần nữa. Xin chào mừng.
Câu trả lời ngắn gọn là có. Tôi thực sự mong đợi, và cũng hy vọng, rằng các nhóm Giáo hội khác nhau sẽ tiếp tục phát triển như những biểu hiện sống động của hiệp thông trong Giáo hội, nhờ những hồng ân mà tất cả chúng ta đang lãnh nhận qua tiến trình này – đó là “nếp sống hiệp hành.”
Tôi muốn nêu một ví dụ cụ thể, ngắn gọn nhưng để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc. Gần đây tôi có một cuộc họp với một vị giám mục đến từ khu vực của bạn, ngài nói rằng vấn đề biến đổi khí hậu đang ở mức độ khẩn cấp đến nỗi, nếu xu hướng hiện nay cứ tiếp diễn, đất nước của ngài ấy sẽ biến mất trong vòng chưa đầy 50 năm nữa. Trong khi đó, chúng ta thường có xu hướng tận hưởng sự tiện nghi, ngồi trong những nơi ấm áp và thoải mái để suy tư về những chủ đề đôi khi dường như chỉ mang tính lý thuyết. Nhưng khi chúng ta lắng nghe tiếng kêu khẩn thiết của con người ở những nơi khác nhau trên thế giới – dù là vì nghèo đói, bất công, biến đổi khí hậu, hay nhiều nguyên nhân khác – chúng ta nhận ra rằng, mình không chỉ đang bàn về những vấn đề lý thuyết, mà một sự đáp trả khẩn cấp là điều cần thiết.
Đây là một thực tại rất cụ thể mà tôi hy vọng tất cả chúng ta đều đón nhận một cách nghiêm túc. Điều này gợi lại lời mời gọi mà Đức Thánh cha Phanxicô đã gửi đến toàn thể Giáo hội và thế giới cách đây 10 năm trong Thông điệp Laudato Si’, nhắc chúng ta rằng đáp lại tiếng kêu của trái đất chính là một phần trong cam kết đức tin của chúng ta. Chúng ta không thể thờ ơ.
Vì thế, tôi thực sự hy vọng rằng, qua các hội đồng giám mục, các giáo tỉnh và các hội đồng giám mục cấp châu lục, chúng ta có thể cùng nhau đối diện với những vấn đề cụ thể này và thực sự tạo nên sự khác biệt. Tôi tin rằng Giáo hội có tiếng nói, và chúng ta cần can đảm cất lên tiếng nói ấy để thay đổi thế giới, làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn.
Câu hỏi 3:
Đức Thánh Cha muốn nói gì với các giám mục và linh mục đang quan ngại rằng tiến trình hiệp hành có thể làm giảm bớt quyền bính của các ngài trong vai trò mục tử? Làm thế nào chúng ta có thể hiểu rõ hơn và cổ võ tinh thần đồng trách nhiệm, trách nhiệm giải trình và minh bạch trong các giáo phận và giáo xứ của mình?
Đức Thánh Cha:
Cảm ơn cha rất nhiều. Câu hỏi này liên quan đến những gì đang diễn ra tại Canada và Hoa Kỳ, hai quốc gia, thật thú vị, ngay trong những ngày này, khi chúng ta đang họp mặt tại đây, lại đang trải qua những khó khăn lớn. Hai quốc gia từng được xem là đồng minh thân cận nhất mà giờ đây, đôi khi, lại xa cách nhau. Đây là một minh chứng khác, cũng là một bằng chứng cụ thể, cho thấy tại sao tính hiệp hành, việc lắng nghe, và đối thoại lại quan trọng đến thế, và chúng có thể được áp dụng cụ thể trong đời sống hằng ngày của chúng ta như thế nào.
Liên quan trực tiếp đến câu hỏi này, tôi muốn trở lại với một cụm từ mà tiến sĩ Susan vừa sử dụng vài phút trước: cụm từ “nhịp độ và quy mô” (pace and scale), nhắc nhở chúng ta rằng không phải mọi sự đều tiến triển cùng một nhịp, cùng một tốc độ, và thực tế là có những khác biệt.
Một trong những bất đồng mà, dường như, nhiều người trong các cha đã từng trải qua, xét theo phản ứng của cha khi câu hỏi được nêu ra, chính là mối lo ngại của một số mục tử hoặc giám mục rằng thẩm quyền của họ có thể bị suy giảm. Có vẻ như cha cũng đã từng bàn về điều này rồi. Tôi muốn mời gọi tất cả các cha, như chúng ta đã được mời gọi trong các phiên họp của Thượng Hội đồng, cùng suy tư về ý nghĩa thật sự của hiệp hành, và mời gọi các linh mục, có lẽ còn cần thiết hơn cả các giám mục, mở rộng lòng mình để tham gia vào tiến trình này.
Nhiều khi, sự kháng cự bắt nguồn từ nỗi sợ hãi và sự thiếu hiểu biết. Tất cả những người đã trình bày về tình hình tại các khu vực của mình đều nêu rõ rằng việc đào tạo là một ưu tiên hàng đầu. Và tôi nghĩ rằng chúng ta phải rất rõ ràng và chân thành về tầm quan trọng của việc đào tạo ở mọi cấp độ.
Đôi khi, những câu trả lời sẵn có được đưa ra mà thiếu sự chuẩn bị cần thiết để giúp người khác đạt đến cùng một kết luận, điều mà một số người trong chúng ta có thể đã hiểu, nhưng những người khác thì chưa sẵn sàng hoặc chưa đủ khả năng để nắm bắt. Nếu không có việc đào tạo thích hợp ở mọi cấp độ, trong trường học, chủng viện, các chương trình thường huấn, hoặc chương trình đào tạo giáo dân trưởng thành, v.v., thì chắc chắn sẽ có sự chống đối và thiếu hiểu biết.
Tôi nghĩ rằng, ít nhất ở một mức độ nào đó, chúng ta cần hiểu rằng không phải ai cũng bước đi cùng tốc độ, và đôi khi chúng ta phải kiên nhẫn với nhau. Thay vì chỉ có một nhóm nhỏ chạy trước và bỏ lại nhiều người phía sau, điều có thể dẫn đến sự rạn nứt trong đời sống Giáo hội, chúng ta cần tìm ra những phương thế cụ thể để hiểu điều gì đang diễn ra ở mỗi nơi, những kháng cự xuất phát từ đâu, và chúng ta có thể làm gì để ngày càng thúc đẩy kinh nghiệm hiệp thông trong Giáo hội, vốn là một Giáo hội hiệp hành.
Vì vậy, theo tôi, trong bối cảnh cụ thể của văn hóa Hoa Kỳ, có thể thấy rằng nhiều cơ cấu hiện có trong Giáo hội mang trong mình tiềm năng hiệp hành rất lớn. Chúng ta cần tìm cách biến đổi chúng để trở nên những kinh nghiệm bao gồm hơn. Dù là trong các hội đồng mục vụ, hay những cơ cấu và hội họp giáo phận khác, việc bao gồm mọi thành phần Dân Chúa, cả nam và nữ, giáo sĩ và giáo dân, nam nữ tu sĩ, v.v., sẽ giúp tất cả cùng tham gia, cùng cảm nhận ý thức đồng trách nhiệm sâu sắc, tinh thần thuộc về, tinh thần lãnh đạo và trách nhiệm trong đời sống của Giáo hội.
Dĩ nhiên, vẫn còn nhiều thách đố, nhưng tôi tin rằng một số bước tiến quan trọng đã được thực hiện, và tôi hy vọng rằng quá trình này sẽ tiếp tục.
Xin cảm ơn.
Câu hỏi 4:
Dựa theo bối cảnh các Giáo hội Công giáo Đông phương (với những nét đặc thù riêng) và trong các giáo phận Công giáo Latinh, những thay đổi khẩn thiết và những cuộc hoán cải nền tảng nào mà chúng ta được mời gọi thực hiện để áp dụng tính hiệp hành trong các tổ chức tham gia ở cấp giáo xứ, giáo phận và trong các Thượng Hội đồng Đông phương, cũng như trong các thiết chế đào tạo của chúng ta (chủng viện, nhà tập, chương trình đào tạo giới trẻ và giáo dân, các trường học và đại học Công giáo…)?
Đức Thánh Cha:
Trước hết, cho phép tôi nói rằng, dù không loại trừ bất kỳ khu vực nào khác trên thế giới, nhưng nếu có nơi nào hôm nay thật sự cần những dấu chỉ của niềm hy vọng, thì đó chính là khu vực Trung Đông. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đều mong muốn trở nên dấu chỉ của niềm hy vọng ấy.
Một trong những dấu chỉ hy vọng quan trọng, đã được nhắc đến đôi lần, và chắc chắn là một dấu chỉ cho thấy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, chính là ân huệ của lòng nhiệt thành. Chúng ta nhận thấy điều đó nơi các Giáo hội tại Trung Đông, và cũng nơi các tín hữu Kitô trong kiều dân, bởi lẽ, thật đáng buồn, rất nhiều người Kitô hữu đã buộc phải rời bỏ quê hương để di cư đến những nơi khác trên thế giới. Nơi họ, chúng ta nhận thấy đức tin chính là nguồn sức mạnh, lòng kiên vững và can đảm, giúp họ tiếp tục bước đi, ngay cả sau khi nhiều lần mất đi tất cả.
Chính trong những hoàn cảnh như thế, tôi cho rằng, Giáo hội cần phải hiệp nhất và quy tụ lại, để trở nên dấu chỉ đích thực của niềm hy vọng, đồng thời là biểu hiện sống động của đức ái Kitô giáo, của tình huynh đệ, và của sự chăm sóc lẫn nhau, đặc biệt đối với những anh chị em đã mất hết tất cả vì sự tàn phá của chiến tranh và hận thù giữa con người với nhau.
Tôi cho rằng những thách đố mà các Giáo hội Đông phương đang kiên cường đảm nhận và tiến bước là điều mà chúng ta ở phương Tây cần hiểu sâu hơn. Khi nhìn vào các tiến trình hiệp hành, chúng ta cũng phải nhận ra rằng Giáo hội Công giáo Latinh và các Giáo hội Công giáo Đông phương có những khác biệt quan trọng, và chúng ta cần tôn trọng những khác biệt ấy. Tôi nghĩ đó là bước đầu tiên trong bất kỳ cộng đoàn hay tổ chức nhân loại nào: nếu không tôn trọng nhau, chúng ta sẽ chẳng bao giờ hiểu được nhau, và vì thế cũng chẳng bao giờ thật sự biết nhau.
Có rất nhiều điều chúng ta có thể bàn đến, như cha đã nêu trong câu hỏi. Tuy nhiên, một lần nữa, việc đào tạo chắc chắn là một phần thiết yếu của câu trả lời, điều mà chúng ta đã nhắc đến nhiều lần, ở mọi cấp độ. Cần có “cuộc đối thoại trong Thánh Thần”, để hiểu rằng việc tham dự vào tiến trình hiệp hành chính là tham dự vào chính đời sống của Giáo hội, và chúng ta cần học biết trước hết là lắng nghe Chúa Thánh Thần, trong nhiều cách thế khác nhau, để cùng bước đi trong một hành trình thiêng liêng.
Cũng như biết bao người trong anh chị em đã phải trải qua những cuộc hành trình gian khổ, chúng ta cũng cần hiểu rằng con tim chúng ta chỉ có thể rộng mở cho Chúa Thánh Thần khi chúng ta nhận ra, sống và cảm nghiệm tầm quan trọng của cầu nguyện, tầm quan trọng của đời sống thiêng liêng, cả trong tư cách cá nhân lẫn trong cộng đoàn, nơi các giáo xứ, các cộng đoàn tu trì hay những nhóm quy tụ khác nhau. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có thể tiếp tục lớn lên trong khả năng lắng nghe nhau và phân định những con đường tốt nhất để cùng tiến bước.
Tôi nghĩ rằng có rất nhiều điều chúng ta cần cầu nguyện để xin Chúa ban sức mạnh giúp chúng ta đồng hành với cha và với đoàn dân của cha, để làm chứng thực cho Đức Giêsu Kitô, như cha đã nói: tại vùng đất nơi Người sinh ra, sống, chịu tử đạo và phục sinh từ cõi chết, dấu chỉ tuyệt hảo nhất của niềm hy vọng cho tất cả chúng ta. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên những người cổ võ đích thực của sự tha thứ và hòa giải, những điều rất cần thiết hôm nay, và học biết rằng chính trong việc tha thứ và nỗ lực hòa giải, chúng ta mới thật sự có thể xây dựng sự hiệp nhất sâu xa hơn giữa mọi dân tộc.
Câu hỏi 5:
Làm thế nào tiến trình hiệp hành có thể khích lệ và truyền cảm hứng cho các xã hội của chúng ta trở nên bao dung hơn, công bằng hơn và là những người kiến tạo hòa bình?
Đức Thánh Cha:
Xin chân thành cảm ơn vì bản tường trình, cũng như tất cả những gì đang được thực hiện tại châu Mỹ Latinh trong tiến trình này, và cả từ lâu trước đó.
Tôi tin rằng Giáo hội cần phải hết lòng biết ơn vì biết bao điều chúng ta đã học hỏi được từ châu Mỹ Latinh: ân ban đức tin, lòng nhiệt thành, tinh thần hiệp thông – vốn trong nhiều trường hợp là một phần của chính văn hóa các dân tộc, những dân tộc truyền thống vốn gắn bó mật thiết và đã – có thể nói – biến ân ban ấy của sự hiệp thông, tình huynh đệ giữa anh chị em, thành một kinh nghiệm được thể hiện rất rõ trong Giáo hội, và dạy cho nhiều người trong chúng ta biết tiếp tục bước đi trên con đường hiệp hành đích thực.
Giờ đây, tôi muốn nói một điều không trực tiếp liên quan đến những gì tôi vừa trình bày, nhưng có thể gắn với chính câu hỏi được nêu ra. Và tôi xin nói trước rằng tôi không có ý xúc phạm. Cá nhân tôi, khi ai đó hỏi: “Làm sao một tiến trình có thể giúp chúng ta được soi sáng?”, thì tôi phải nói rằng hiếm khi trong đời tôi được soi sáng nhờ một tiến trình. Tôi được gợi hứng bởi những con người sống đức tin với lòng nhiệt thành. Tất cả anh chị em đã đến trong những ngày này với tư cách là các nhóm hiệp hành, nhưng là để sống Năm thánh. Và tôi nghĩ điều rất quan trọng là phải hiểu rằng Năm thánh là lời mời gọi hoán cải, hòa giải và sống đời sống mới mà chúng ta đã lãnh nhận nơi Đức Giêsu Kitô. Sống tinh thần này – và chúng ta đang nói đến linh đạo của tính hiệp hành – nhưng thực ra đó chính là linh đạo của Tin mừng, của hiệp thông, của ước muốn được là Giáo hội. Đây là những khía cạnh có thể thật sự truyền cảm hứng cho chúng ta tiếp tục là Giáo hội và xây dựng những con đường dung nạp, mời gọi nhiều người hơn nữa – tất cả mọi người – cùng đồng hành và bước đi với chúng ta.
Vì thế, tôi tin rằng điều nền tảng trong tất cả những điều này là mỗi người chúng ta phải sống một cuộc hoán cải đích thực và khám phá trong tâm hồn mình – qua tất cả những yếu tố mà chúng ta đã nói đến – một đời sống thiêng liêng đích thực khởi đi từ việc lắng nghe Lời Chúa, từ sự phân định về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, để nhận ra nơi đâu Chúa Thánh Thần đang mời gọi chúng ta dấn thân, rồi chia sẻ kinh nghiệm ấy qua những phương pháp như “cuộc đối thoại trong Thánh Thần.” Sống sự gần gũi ấy với chính Đức Kitô, Đấng có thể thắp lên trong tâm hồn chúng ta ước muốn trở nên môn đệ, những môn đệ truyền giáo trung tín trên hành trình.
Khi chúng ta sống với lòng nhiệt thành và xác tín như thế, chúng ta sẽ thấy rằng thật sự có nhiều người khác nữa muốn hiệp cùng chúng ta, để trở nên những người xây dựng hòa bình và hiệp thông. Xin cảm ơn.
Câu hỏi 6:
Phụ nữ có thể đặt hy vọng chính đáng nào vào một Giáo hội hiệp hành? Đức Thánh Cha có nghĩ rằng trong Giáo hội đang diễn ra một sự thay đổi văn hóa đích thực, đủ để làm cho sự bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trở thành một thực tại sống động trong tương lai không?
Đức Thánh Cha:
Cảm ơn Giáo sư về bản tường trình và cũng như về câu hỏi này. Tôi xin bắt đầu bằng hai kinh nghiệm rất riêng tư của mình. Trước hết là trong gia đình tôi. Tôi lớn lên trong một gia đình Công giáo, nơi mẹ tôi – và cả cha tôi nữa – đều rất tích cực trong giáo xứ. Có một lần, nhiều năm trước, khi ở Mỹ người ta nói nhiều về vấn đề bình đẳng giữa nam và nữ – tôi đang nói đến những năm 1970 – tôi hỏi mẹ tôi: “Mẹ có muốn được bình đẳng với đàn ông không?”. Và bà trả lời: “Không, vì phụ nữ vốn đã tốt hơn rồi!”. Và chắc chắn là bà không nói đùa. Có rất nhiều ân ban mà phụ nữ có, và họ đã có thể trao tặng từ lâu, trong nhiều khía cạnh của đời sống gia đình và giáo xứ. Không chỉ mẹ tôi, mà là biết bao phụ nữ khác.
Kinh nghiệm thứ hai của tôi đến từ Peru, nơi có một hội dòng nữ tu sống đời thánh hiến, với đặc sủng là làm việc ở những nơi không có linh mục. Họ có năng quyền cử hành phép Rửa, chứng hôn… Họ thi hành một sứ vụ truyền giáo tuyệt vời, thực sự là một chứng tá cho nhiều linh mục. Đó chính là lòng can đảm cần có để loan báo Tin mừng – và chính những người phụ nữ đang thực hiện điều ấy!
Về câu hỏi được đặt ra – tạm gác sang một bên những chủ đề khó hơn đang được nghiên cứu bởi một nhóm chuyên trách – tôi nghĩ rằng vấn đề không nằm ở chỗ thiếu cơ hội, mà là ở những chướng ngại về mặt văn hóa. Và chúng ta phải nhìn nhận điều đó, vì không phải mọi giám mục hay linh mục đều sẵn sàng để phụ nữ thi hành những vai trò mà họ hoàn toàn có khả năng đảm nhận. Có những nền văn hóa mà ở đó, phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi – như thể họ là công dân hạng hai – và thật sự họ không luôn được hưởng những quyền bình đẳng. Đây chính là một thách đố cho Giáo hội và cho tất cả chúng ta: làm sao để cùng nhau cổ võ việc tôn trọng quyền của mọi người, nam cũng như nữ; làm sao để cổ vũ một nền văn hóa trong đó những điều này không chỉ là có thể, mà còn trở thành thực tại, trong sự tham gia cùng nhau của mọi người, mỗi người theo ơn gọi của mình, để tất cả đều có thể đảm nhận những vai trò trách nhiệm trong Giáo hội.
Chúng ta đã thấy nhiều gương sáng cụ thể, nhưng thực tế là về mặt văn hóa, không phải mọi quốc gia đều ở cùng một trình độ như châu Âu hay Hoa Kỳ. Chúng ta không thể đơn giản nghĩ rằng chỉ cần bổ nhiệm một người phụ nữ ở đây hay ở đó là vấn đề được giải quyết, vì có những khác biệt văn hóa sâu xa gây ra khó khăn. Do đó, điều cần thiết là suy tư xem Giáo hội có thể trở thành một sức mạnh cho sự hoán cải và biến đổi các nền văn hóa theo các giá trị Tin mừng như thế nào.
Thật đáng tiếc, nhiều khi cách chúng ta sống đức tin lại bị chi phối bởi văn hóa hơn là bởi các giá trị Tin mừng! Và chính ở đây, chúng ta – mỗi người trong chúng ta – có thể trở thành sức mạnh, nguồn cảm hứng, và lời mời gọi cho các quốc gia, các cộng đoàn, và các nền văn hóa của mình, để suy tư về những khác biệt còn tồn tại – không chỉ giữa nam và nữ, mà còn giữa các giai tầng xã hội. Ở nhiều nơi, người ta vẫn bị loại trừ khỏi những trách vụ chỉ vì thành kiến, giai cấp hay địa vị… Có những định kiến và hình thức kỳ thị hoàn toàn trái ngược với Tin mừng, và nhiều khi chúng ta cảm thấy bất lực trước những thực tế đó.
Vì thế, còn rất nhiều việc phải làm. Tôi tin rằng Giáo hội đã và đang mở ra nhiều không gian để bắt đầu và tiếp tục hành trình này. Chúng ta cần can đảm đồng hành với những hoàn cảnh và thực tại ấy, để từng bước có thể mang lại những thay đổi, những chuyển hóa trong văn hóa, nhờ đó loại bỏ được những hình thức kỳ thị thật sự, và xây dựng nên những cộng đoàn nơi các ân ban, các đặc sủng của mỗi người được tôn trọng và trân quý. Xin cảm ơn.
Câu hỏi 7:
Đức Thánh cha muốn gửi đến các Giáo hội tại châu Á sứ điệp nào để khích lệ tiến trình hoán cải hiệp hành?
Đức Thánh Cha:
Điều đầu tiên tôi nghĩ đến là tôi muốn nói lời “cảm ơn” với Giáo hội tại Á châu. Nếu có ai đó đang phải đối diện với nhiều thử thách – bởi vì sự khác biệt ngôn ngữ và văn hóa, khoảng cách địa lý, nghèo đói, và rất nhiều thực tế khó khăn khác mà anh chị em đang trải qua – nhưng vẫn nỗ lực hết sức và đạt được những kết quả như hôm nay trong việc sống tiến trình hiệp hành, cũng như trong việc cổ võ sự hiệp thông và hoán cải, thì tôi nghĩ tất cả chúng ta đều phải nói lời cảm ơn và chúc mừng anh chị em.
Cha nói rằng đối thoại là yếu tố thiết yếu cho sự chung sống hòa bình. Tôi nghĩ rằng, do có rất nhiều thực tại liên tôn – không chỉ riêng Á châu, nhưng nơi đây lại rất phổ biến – và vì, ngoại trừ Philippines, nếu tôi không nhầm, thì Kitô giáo là tôn giáo thiểu số ở hầu hết các nơi, nên để sống đức tin và làm môn đệ của Chúa Giêsu trong những hoàn cảnh có áp bức, khó khăn trong việc sống đức tin, có rất nhiều điều khiến chúng ta phải cúi đầu tôn kính mảnh đất thánh thiêng là Á châu – vùng đất có ý nghĩa to lớn cho hiện tại và tương lai của Giáo hội.
Ở Á châu có một cảm thức sâu xa về mầu nhiệm và sự hiểu biết về Thiên Chúa, điều này là đặc điểm chung của nhiều tôn giáo tại đây, và chính điều ấy mở ra những cánh cửa cho các hình thức đối thoại liên tôn khác nhau. Tôi nghĩ đây là một kho tàng quý giá cho toàn thể Giáo hội cả Đông lẫn Tây. Tôi cũng tin rằng đây là một giá trị được nhiều nền văn hóa Á châu trân trọng, và là điều mà chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều.
Vì thế, khi chúng ta nói về tinh thần hiệp hành và về “Cuộc đối thoại trong Thánh Thần”, thì có thể nói, ở đây có một yếu tố mang tính chiêm niệm, mang chiều kích huyền nhiệm mà chúng ta có thể tiếp tục khám phá. Tôi không nói “hiểu biết”, vì điều đó vượt xa sự hiểu biết; nhưng đó là một sự tiếp xúc với Thiên Chúa, điều mà tất cả chúng ta đều có thể học hỏi, nhất là từ các anh chị em tại Á châu và phương Đông.
Dĩ nhiên, vẫn còn nhiều thách đố: những thực tại về cơ cấu, kinh tế mà anh chị em đang đối diện, hay những khó khăn trong việc cổ võ truyền thông và liên kết rộng rãi vì những giới hạn của các Giáo hội địa phương. Đây là những thực tế mà tôi nghĩ chúng ta cần phải cùng nhau đối diện. Kinh nghiệm hiệp hành trong việc xây dựng sự hiệp thông này nên truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta trở nên quảng đại hơn trong việc chia sẻ nguồn lực, để có thể đạt được sự công bằng và bình đẳng hơn, kể cả trong việc phân chia của cải vật chất và phúc lành mà nhiều Giáo hội có thể chia sẻ với nhau. Rõ ràng đây là một thách đố lớn, nhưng cũng đã có rất nhiều nỗ lực được thực hiện, và điều đó đáng được ghi nhận. Tiến trình này hiện nay vẫn đang tiếp tục.
Một lần nữa, tôi tin rằng các dân tộc ở Á châu có thể mang đến nhiều niềm hy vọng. Tôi hy vọng rằng tất cả chúng ta, cùng nhau, có thể trở thành dấu chỉ của niềm hy vọng cho Giáo hội tại Á châu. Với tâm tình đó, tôi chỉ muốn bày tỏ lòng biết ơn và sự kính trọng sâu xa dành cho tất cả những ai đang cùng nhau tiến bước trong Giáo hội tại Á châu. Xin cảm ơn.
Ngọc Huấn
Chuyển ngữ từ: vatican.va
Để lại một phản hồi