CHÚA KITÔ, “THIÊN CHÚA THẬT BỞI THIÊN CHÚA THẬT”
1- Đức tin của Nicêa
Trong suy niệm này chúng ta tiếp tục suy tư về vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc nhận biết Đức Kitô. Liên quan đến vấn đề này chúng ta không thể không nói đến một bằng chứng đang xảy ra trong thế giới hôm nay. Có một phong trào không biết xuất hiện từ lúc nào được gọi là “phong trào Do Thái Cứu Thế,” mà các thành viên của nó là những Kitô hữu gốc Do Thái. (“Kitô và Kitô hữu là những chuyển dịch theo tiếng Hy Lạp, đối với tiếng Do Thái, là “Messiah” và “mesianic”!). Một ước tính ít nhất là khoảng 150,000 thành viên, được phân chia trong nhiều nhóm và hiệp hội khác nhau. Phần lớn họ được thành lập ở Mỹ, Israel, và nhiều quốc gia ở Châu Âu.
Họ là những người Do Thái tin rằng Chúa Giêsu (Yeshua) là Đấng Messia được hứa ban, Đấng Cứu Độ và là Con Thiên Chúa, nhưng họ không muốn từ bỏ căn tính Do Thái và truyền thống của họ. Họ không chính thức gắn bó với bất kỳ Giáo Hội Kitô giáo truyền thống nào, bởi vì ý định của họ là kết nối và làm sống lại giáo hội sơ khai của những Kitô hữu gốc Do Thái, mà kinh nghiệm của họ đã bị gián đoạn một cách rất đau thương bởi những biến cố được mọi người biết đến.
Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội khác đã luôn tránh né cổ vũ hoặc đề cập đến phong trào này vì lý do hiển nhiên của việc đối thoại với Do Thái Giáo chính thức. Bản thân tôi không bao giờ nói về nó. Nhưng tôi càng ngày càng xác tín rằng điều đó thì không đúng lắm để tiếp tục phớt lờ họ, hoặc tệ hại hơn nữa, là tẩy chay họ. Gần đây, một nghiên cứu bởi nhiều nhà thần học đã được thực hiện ở Đức về hiện tượng này.
Tôi đang đề cập về nó ở đây vì lý do đặc biệt liên quan đến chủ đề của bài suy niệm này. Khi trả lời cho một cuộc điều tra về những nhân tố và hoàn cảnh mà chúng là nguyên nhân dẫn họ tới đức tin vào Chúa Giêsu, hơn 60 % trong số họ đã trả lời: “Nhờ hành động bên trong của Chúa Thánh Thần thúc đẩy;” nhân tố thứ hai là họ đọc Kinh Thánh, và nhân tố thứ ba là cuộc gặp gỡ cá vị với người khác. Đây là một xác nhận từ kinh nghiệm sống động mà Chúa Thánh Thần là Đấng ban cho sự hiểu biết đích thực, mật thiết về Chúa Kitô.
Bây giờ chúng ta hãy trở lại với chủ đề chính của chúng ta. Liền sau khi Kitô Giáo xuất hiện trong thế giới xung quanh Hy Lạp – La Mã, tước hiệu “Chúa – Kyrios” không còn đủ nữa. Thế giới dân ngoại đã biết đến nhiều “chúa”, hoàng đế La Mã đặc biệt trở thành người đứng đầu trên họ. Cần thiết phải tìm ra những cách thế khác để bảo đảm đức tin đầy đủ vào Chúa Kitô và vương quyền Người như là Chúa. Khủng hoảng Ariô cung cấp cơ hội này.
Điều này dẫn chúng ta sang phần thứ hai của tín khoản về Chúa Giêsu đã được thêm vào Tín Biểu đức tin tại Công Đồng Nicêa vào năm 325:
“Sinh bởi Ðức Chúa Cha từ trước muôn đời.
Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa,
Ánh Sáng bởi Ánh Sáng,
Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật,
được sinh ra mà không phải được tạo thành,
đồng bản thể với Ðức Chúa Cha.”
Giám mục thành Alexandria, thánh Athanasius, chiến sĩ bất khuất của đức tin Nicêa, đã rất xác tín rằng không phải ngài cũng không phải Giáo Hội thời ngài đã khám phá ra thần tính của Chúa Kitô. Tuy nhiên, toàn bộ công trình ngài sẽ dành để minh chứng rằng đây luôn là niềm tin của Giáo Hội. Điều mới mẻ không phải là chân lý nhưng là chống lại những lạc giáo. Xác tín của ngài về điều này tìm thấy trong một chứng thực lịch sử không thể chối cãi trong một lá thư mà Pliny the Younger, nhà lãnh đạo của Bithynia, viết cho hoàng đế Trajan khoảng năm 111 SCN. Thông tin duy nhất chắc chắn ông nói rằng ông biết về những Kitô hữu: “Họ thường gặp nhau lúc rạng đông trong một ngày đã định để hát thánh vịnh… tôn thờ Chúa Kitô là chúa (carmenque Christo quasi Deo dicere).
Đức tin vào thần tính của Chúa Kitô đã hiện hữu, và như thế chỉ khi lơ là hoàn toàn lịch sử mà ai đó có thể nói rằng thần tính của Chúa Kitô là một tín điều do Công Đồng Nicêa cố ý đặt ra nhờ hoàng đế Constantine. Sự đóng góp của các Giáo Phụ tại Nicêa và đặc biệt thánh Athanasiô, hơn bất cứ điều gì, là tháo bỏ những chứng ngại mà nó ngăn cản một sự hiểu biết đầy đủ về thần tính của Chúa Kitô và không ngần ngại nói về thần tính của Chúa Kitô trong những tranh luận thần học.
Một chướng ngại như thế là thói quen của người Hy Lạp về việc định nghĩa bản thể thần linh với từ agennetos,“vô thủy vô chung” hay là “không được sinh ra.” Làm sao một người tuyên xưng rằng Ngôi Lời là Thiên Chúa thật tại lúc Người là Con, nghĩa là từ lúc Người được sinh ra bởi Chúa Cha? Thật là dễ dàng đối với Ariô để thiết lập tính tương đương giữa “được sinh ra” và “được tạo thành” là đi từ “gennetos đến genetos”, và để kết luận với quả quyết nổi tiếng của ông mà nó đã làm nổ tung vấn đề: “Đã có lúc Người không có (en ote ouk en). Điều này tương tự với việc biến Chúa Kitô thành một thụ tạo cả khi Người “không giống với những thụ tạo khác”. Athanasiô đã giải quyết tranh luận với một nhận xét căn bản: “Vô thủy vô chung là một từ của người Hy Lạp, họ không biết đến Chúa Con.” Ngài đã mạnh mẽ bảo vệ sự diễn tả của Nicêa “được sinh ra, mà không được tạo thành” (genitus non factus).
Một chướng ngại khác thuộc văn hóa đối với việc nhận thức đầy đủ về thần tính của Chúa Kitô, dựa vào đó mà Ariô đã có thể xây dựng luận đề của ông, đó là giáo huấn về hữu thể trung gian thần linh, deuteros theos, có nhiệm vụ trong công trình tạo thành của thế giới. Từ Platôn trở đi, “thần bậc hai” đã trở thành một sự giả định chung trong nhiều hệ thống tôn giáo và triết học cổ xưa. Cám dỗ coi Chúa Con “nhờ Người mà muôn vật được tạo thành” như là một hữu thể trung gian dần dần du nhập vào suy tư Kitô Giáo (các nhà hộ giáo, Origene), dẫu nó xa lạ với đời sống bên trong của Giáo Hội. Nó mang lại một trật tự tam cấp của hữu thể: ở đỉnh, Chúa Cha không được sinh ra; sau Người, là Chúa Con (và sau đó là Chúa Thánh Thần); và ở nơi thứ ba, là thụ tạo.
Định nghĩa về “được sinh ra mà không được tạo thành” và “đồng bản thể” đã xóa đi trở ngại này và nó đã dẫn tới một sự xóa sạch của Kitô Giáo khỏi thế giới siêu hình của người Hy Lạp. Với định nghĩa này, chỉ còn một đường của sự phân rẽ được vẽ nhờ trục thẳng của hữu thể. Bây giờ chỉ còn hai hình thức của hữu thể: một là Tạo Hóa và một là các thụ tạo, và Chúa Con được đặt ở phạm trù thứ nhất, chứ không ở phạm trù thứ hai.
Nếu chúng ta tóm tắt ý nghĩa lâu đời của định tín Nicêa trong một lời tuyên bố, chúng ta cần phải định nghĩa nó như thế này: trong mỗi thời và mỗi nền văn hóa, Chúa Kitô phải được loan báo như là “Chúa” không theo nghĩa phát sinh hoặc thứ yếu nhưng theo nghĩa mạnh nhất mà từ “Chúa” có trong nền văn hóa này.
Thật là quan trọng để hiểu điều đã thúc đẩy Athananasiô và những nhà thần học chính thống khác trong cuộc chiến của họ, nghĩa là, tại sao xác tín của họ là tuyệt đối như thế. Nó không đến từ một sự nghiên cứu nhưng đến từ đời sống, hay đúng hơn, từ suy tư về kinh nghiệm mà nhờ hành động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội có về ơn cứu độ nơi Chúa Kitô Giêsu.
Vấn đề cứu độ học đã không được nảy sinh ngoài tranh luận của Ariô; nó hiện diện trong tất cả những tranh luận lớn thuộc Kitô học của thời cổ xưa khởi đi từ tranh luận của Ngộ Đạo thuyết đến Nhất Ý Muốn thuyết (Monothelite). Trong công thức kinh điển này, có viết: “Điều không được Người đảm nhận, thì không được cứu độ” (Quod non est assumptum non est sanatum). Khi thánh Athanasiô sử dụng công thức này, nó cần được hiểu như sau: “Điều gì không được đảm nhận bởi Thiên Chúa thì không được cứu độ,” và tất cả sức mạnh nằm trong sự thêm vào vắn gọn “bởi Thiên Chúa.” Ơn cứu độ đòi hỏi con người không được đảm nhận bởi trung gian nào đó nhưng bởi chính Thiên Chúa. “Nếu Chúa Con là một thụ tạo, con người vẫn ở trong tình trạng hay chết như trước kia, không được kết hợp với Thiên Chúa” và “con người đã không được thần hóa nếu chỉ kết hợp với một thụ tạo, hay nếu không Chúa Con là Thiên Chúa thật.”
Tuy nhiên, chúng ta cần làm sáng tỏ ở đây. Thần tính của Chúa Kitô không phải là một “đòi hỏi” thực tế, theo Emmanuel Kant, như nó là thật vì chính sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nó không phải là một “đòi hỏi” nhưng là một sự giải thích về một sự kiện thật. Nó phải là một đòi hỏi – và như thế là một sự giải thích thần học con người – nếu nó trở nên từ một ý tưởng nào đó về ơn cứu độ, và thần tính của Chúa Kitô được diễn dịch từ nó như là khả năng duy nhất có thể để mang lại ơn cứu độ như thế. Thay vì, nó là một sự diễn giải về một sự kiện nếu nó khởi đi từ một kinh nghiệm về ơn cứu độ, như thánh Athanasiô làm, và chỉ cho thấy kinh nghiệm này đã không hiện hữu như thế nào nếu Chúa Kitô không phải là Thiên Chúa. Nói cách khác, thần tính của Chúa Kitô không dựa trên ơn cứu độ, thay vào đó, ơn cứu độ được dựa trên thần tính của Chúa Kitô.
2- “Anh em bảo thầy là ai?” (Mt 16,15)
Nhưng đây là lúc trở về với chủ đề của chúng ta và cố gắng nhìn xem điều mà chúng ta có thể học hôm nay từ cuộc chiến oanh liệt mà tính chính thống kéo dài trong thời gian của nó. Thần tính của Chúa Kitô là viên đá góc làm nổi lên hai mầu nhiệm chính của đức tin Kitô giáo: mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và nhập thể. Chúng giống như hai cửa sổ cùng mở ra và khép lại. Có những tòa nhà hay những công trình kim loại được xây dựng theo một cách thức như thế mà nếu một điểm nào đó bị hỏng, hoặc nếu ai đó di chuyển một hòn đá nào đó, thì chúng sụp đổ. Tòa nhà đức tin Kitô giáo giống như điều này, và viên đá góc của nó là thần tính của Đức Kitô. Nếu viên đá này bị lấy đi, mọi sự sẽ sụp đổ xuống, và trước hết là mầu nhiệm Ba Ngôi. Nếu Chúa Con không phải là Thiên Chúa, ai tạo nên Ba Ngôi? Thánh Athanasiô đã kết án bất cứ lý thuyết nào chống lại thần tính của Đức Kitô và trong tác phẩm chống lại những người theo Ariô ngài nói:
“Nếu Ngôi Lời không ở với Chúa Cha từ đời đời, như thế Ba Ngôi không phải là vĩnh cửu, nhưng trước tiên có một ngôi và sau đó thêm vào, nên trở thành Ba Ngôi.”
Thánh Augustinô nói: “Đây không phải là điều vĩ đại để tin rằng Chúa Kitô đã chết: cả người dân ngoại và người Do Thái cũng như những người xấu tin điều đó. Tất cả họ đều chắc rằng Người đã chết. Đức tin của các Kitô hữu là tin vào sự sống lại của Chúa Kitô.” Điều tương tự là điều được nói về cái chết và phục sinh phải được nói về nhân tính và thần của Chúa Kitô, mà sự chết và sự sống lại của Người là những sự bày tỏ tương ứng của chúng. Mọi người tin rằng Chúa Giêsu là một con người; điều phân biệt giữa người tín hữu và người không tin là tin rằng Người là Thiên Chúa. Đức tin của các Kitô hữu là tin vào thần tính của Chúa Kitô.
Chúng ta cần tự đặt ra một câu hỏi nghiêm túc. Chúa Giêsu Kitô đã có vị trí nào trong xã hội và trong đức tin của các Kitô hữu? Tôi tin rằng chúng ta có thể nói về vần đề này liên quan đến một sự hiện diện – vắng mặt của Chúa Kitô. Theo một mức độ nào đó – mức độ của giải trí và của phương tiện truyền thông nói chung – Chúa Giêsu Kitô đang hiện diện. Trong một loạt vô số những câu chuyện, phim ảnh, sách vở, những trước tác ngụy tạo dung mạo của Chúa Kitô, đôi khi dưới lý do của những tài liệu giả định mới mẻ thuộc lịch sử về Người. Điều này trở thành một khuynh hướng, một thể loại văn chương. Người ta suy diễn trên sự cộng hưởng rộng lớn mà danh hiệu của Chúa Giêsu có và trên những gì mà Người đại diện cho phần rộng lớn của nhân loại, để bảo đảm sự quảng cáo rộng lớn với giá rẻ tiền. Tôi gọi tất cả điều đó là thể loại văn chương ăn bám.
Như thế, từ một quan điểm nào đó, chúng ta phải nói rằng Chúa Giêsu Kitô đang hiện diện nhiều trong nền văn hóa chúng ta. Nhưng nếu chúng ta nhìn theo cái nhìn đức tin, Người có phải là ở chỗ nhất không? Trái lại, chúng ta nhận thấy rằng có một sự vắng mặt đáng lo, nếu không muốn nói là từ chối về ngôi vị Người. Trong thực tế, những người được gọi là “tín hữu” ở Châu Âu và những nơi khác tin vào điều gì? Nhiều lúc họ tin vào sự hiện hữu của một Hữu Thể tối cao, vào Đấng Tạo Hóa; họ tin rằng có một “thế giới bên kia.” Tuy nhiên, đây là một đức tin thuộc thần luận (deistic), không còn là một đức tin Kitô giáo. Những nghiên cứu xã hội học cho thấy dữ kiện này quả thật có trong các quốc gia và tôn giáo thuộc truyền thống cổ xưa của Kitô giáo. Chúa Giêsu Kitô trong thực tế vắng mặt trong kiểu tôn giáo này.
Cuộc đối thoại giữa khoa học và đức tin cũng vô tình đưa tới việc đặt Chúa Kitô vào lấp chỗ trống. Cuộc đối thoại này có đối tượng là Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, nhưng con người lịch sử của Chúa Giêsu thành Nadarét không có chỗ bất cứ điều gì. Điều tương tự xảy ra trong cuộc đối thoại với triết học ưu thích chú tâm với những quan niệm siêu hình hơn là thực tại lịch sử, không đề cập đến cuộc đối thoại liên niềm tin trong đó hòa bình, môi trường được thảo luận, nhưng không phải là Chúa Giêsu.
Chỉ cần lướt qua ở Tân Ước để thấy chúng ta đang ở xa như thế nào so với ý nghĩa của từ “đức tin” trong Tân Ước. Đối với Phaolô, đức tin công chính hóa các tội nhân và ban Thánh Thần (x. Gl 3,2) – nói cách khác đức tin mang lại ơn cứu độ – là đức tin trong Chúa Giêsu Kitô, trong mầu nhiệm vượt qua của cái chết và phục sinh của Người.
Trong cuộc đời dương thế của Chúa Giêsu, từ “đức tin” đã có ý nghĩa là tin vào Người. Khi Chúa Giêsu nói “đức tin con đã cứu chữa con,” và khi Người quở trách các tông đồ và gọi họ “anh em là những người kém lòng tin,” Người không muốn nói tới một đức tin có tính chung chung vào Thiên Chúa như đã được ban cho người Do Thái; Người đang nói tới đức tin vào Người! Điều này tự thân bác bỏ luận đề nói rằng đức tin vào Chúa Kitô bắt đầu chỉ với Phục Sinh và trước đó chỉ có “Chúa Giêsu lịch sử.” Chúa Giêsu lịch sử là người đã đòi hỏi có đức tin vào Người, như thế nếu các môn đệ đã theo Người điều đó có nghĩa một cách chính xác bởi vì họ đã có một đức tin nào đó vào Người, dẫu nó chưa hoàn hảo trước khi Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần.
Vì thế, chúng ta cần để cho mình đối diện trực tiếp câu hỏi Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ của Người vào một ngày sau khi họ đã nói với Người về những quan niệm của dân chúng xung quanh Người: “Nhưng anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15), và để đối diện với câu hỏi này một cách cá vị hơn: “Anh em có tin không? Anh em thực sự tin không? Anh em có tin với tất cả tâm hồn không?” Thánh Phaolô nói: “Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10,10). Thánh Augustinô kêu lên rằng đức tin “vọt ra từ đáy lòng.”
Trong quá khứ, thời khắc thứ hai của tiến trình này – có nghĩa là thời khắc tuyên xưng một đức tin đúng đắn… chính thống – đôi khi rất được nhấn mạnh nên nó làm mờ đi thời khắc thứ nhất, mà nó quan trọng nhất và xảy ra trong sâu thẳm con tim. Hầu hết những khảo luận “về đức tin” (de fide) được viết trong thời đại cổ xưa tập trung vào điều để tin và không tập trung vào hành vi đức tin.
3- Ai chiến thắng thế gian?
Chúng ta cần tái tạo lại những điều kiện để có một đức tin vào thần tính của Chúa Kitô không dè dặt và ngập ngừng. Chúng ta cần tái sinh lòng nhiệt thành của đức tin từ đó mà công thức đức tin được hình thành. Thân thể Giáo Hội một lần sinh ra một cố gắng lớn nhất nhờ đó mà nó được nâng cao trên mọi hệ thống nhân loại và mọi sự chống đối của lý trí. Hoa quả của cố gắng này tồn tại mãi về sau. Thủy triều được dâng tới mức cao nhất và dấu tích của nó đã để lại trên tảng đá. Dấu tích của nó là định tín bởi Công Đồng Nicêa mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kinh. Tuy nhiên chúng ta cần phải lặp lại cao trào này, chưa đủ với dấu tích này. Chỉ đọc Kinh Tin Kính của Nicêa thôi thì chưa đủ; chúng ta cần canh tân làn sóng nhiệt thành của đức tin đã có vào thời điểm này liên quan đến thần tính của Chúa Kitô mà không có gì ngang hàng qua các thế kỷ. Chúng ta cần có kinh nghiệm về điều này lần nữa.
Trên hết chúng ta cần kinh nghiệm này vì sứ vụ tân phúc âm hóa. Thánh Gioan viết trong Thư Thứ Nhất rằng: “Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa” (1 Ga 5,5). Chúng ta cần hiểu rõ câu “chiến thắng thế gian” nghĩa là gì. Nó không có nghĩa là có nhiều thành công hoặc làm chủ tình hình chính trị và văn hóa. Trái lại có lẽ điều này đưa đến sự ngược lại: không chiến thắng thế gian nhưng lại thuộc về thế gian. Bất hạnh thay, đã có lúc con người đã rơi vào sự hiểu lầm này mà không thực hiện nó được. Một người có thể suy nghĩ về lý thuyết “hai lưỡi gươm” hoặc “triều đại bộ ba của Đức Giáo Hoàng,” nhưng chúng ta phải luôn cẩn thận không xét đoán quá khứ với những tiêu chuẩn và những giả thiết hiện tại. Từ cái nhìn lịch sử, đã xảy ra hoàn toàn ngược lại và Chúa Giêsu đã nói điều đó với các môn đệ của Người trước: “Anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian thì vui mừng” (Ga 16,20).
Vì thế, phải loại trừ mọi chủ nghĩa chiến thắng. Chúng ta đề cập đến một loại chiến thắng rất khác: một chiến thắng mà ngay cả thế gian ghét nó và không chấp nhận nó: những gì thuộc về đời này, tính hư vô, sự dữ, sự chết. Quả thật, đây là điều mà trong quan niệm tiêu cực từ “thế gian” (kosmos) trong Tin Mừng muốn nói. Cũng là nghĩa mà Chúa Giêsu nói: “Anh em hãy can đảm: Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Làm sao Chúa Giêsu đã chiến thắng thế gian? Dĩ nhiên không nhờ việc chiến thắng kẻ thù với “mười đoàn ngũ các thiên thần” nhưng thay vào đó, như thánh Phaolô nói, bằng “tiêu diệt sự thù ghét” (Ep 2,16), điều này có nghĩa là tiêu diệt mọi sự làm ngăn cách con người khỏi Thiên Chúa, từ con người đến con người, quốc gia đến quốc gia. Để nhờ đó không có nghi ngờ gì về bản chất của chiến thắng này trên thế gian, nó được hoàn thành nhờ một chiến thắng hoàn toàn đặc biệt, chiến thắng của thập giá.
Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Đây là những lời thường được viết lại bằng chữ khảm cổ kính trên những trang sách mà Đấng Toàn Năng đang cầm mở ra trên tay Người, giống như những bức tranh mosaic trong nhà thờ chính tòa nổi tiếng ở Cefalu. Tác giả Tin Mừng Gioan khẳng định về Chúa Giêsu rằng: “Trong Người có sự sống và sự sống là ánh sáng của con người” (Ga 1,4). Anh sáng và sự sống, Phos và Zoe: hai từ này là hai mẫu tự chính trong tiếng Hy Lạp (omega) nói chung và chúng thường được thấy viết chéo nhau – một từ theo chiều dọc và một từ theo chiều ngang – để tạo thành một chữ lồng rất mạnh mẽ và phổ biến về Chúa Kitô.
Con người muốn điều gì nhất nếu không phải chính xác là hai điều này: ánh sáng và sự sống? Chúng ta biết rằng một tác giả hiện đại, Goethe, đã thì thầm khi ông hấp hối: “Cần ánh sáng hơn.” Có lẽ ông đã muốn nói đến ánh sáng tự nhiên hơn trong phòng ông, nhưng lời trăng trối này được coi có một ý nghĩa siêu hình và thiêng liêng, và đúng như thế. Một người bạn của tôi, khi trở lại với niền tin vào Chúa Kitô sau khi đã trải qua những kinh nghiệm tôn giáo có thể và hình dung được, đã kể lại cuộc đời mình trong một cuốn sách có tựa đề “Mendicante di luce” (Kẻ ăn mày ánh sáng). Giây phút khó khăn đến chính lúc đang chìm sâu trong suy niệm, ông cảm thấy lời nói của Chúa Giêsu đang vang dội trong tâm trí ông mà không thể làm nó im lặng: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống.” Theo gương của thánh tông đồ Phaolô đã nói với những người Athêna ở Arêôpagô, chúng ta được mời gọi để nói bằng tất cả sự khiêm tốn với thế giới hôm nay, “Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị” (Cv 17,23).
Archimedes, người phát minh những nguyên lý của đòn bẩy, đã kêu lên: “Hãy cho tôi một điểm tựa, và tôi sẽ nâng nổi trái đất.” Người tin vào Chúa Kitô là người tìm thấy một điểm tựa. “Dù mưa ra, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá” (Mt 7,25).
4- “Phúc cho những con mắt thấy những điều anh em thấy!”
Tuy nhiên, chúng ta không thể kết thúc suy niệm của chúng ta mà không đề cập đến lời mời gọi ẩn chứa trong đó, không chỉ trong cái nhìn tân phúc âm hóa nhưng cả trong cái nhìn của đời sống và chứng tá cá nhân chúng ta. Trong vở kịch của Paul Claudel, The Humiliated Father (Người Cha bị hạ nhục) được dàn dựng ở Rôma vào thời của Chân Phước Piô IX, có một cảnh rất ấn tượng. Một người con gái trẻ Do Thái, rất xinh đẹp nhưng bị mù, đang đi vào trong vườn của một biệt thự Rôma vào buổi chiều với cháu của Đức Giáo Hoàng, là Orian, người đang yêu cô ta. Khi chơi nghĩa kép của ánh sáng, nghĩa tự nhiên và nghĩa đức tin, tại một điểm nào đó “với một giọng nhỏ nhẹ và với sự nồng nàn” cô nói với người bạn Kitô hữu: “Nhưng anh là người thấy, vậy anh dùng ánh sáng để làm gì?… Anh nói anh sống, vậy anh đã làm gì với sự sống của anh?”
Đó là một vấn nạn mà chúng ta không thể cho nó đi qua mà không để ý đến: Chúng ta, những Kitô hữu, đang làm gì với đức tin vào Chúa Kitô? Hay tốt hơn, tôi đang làm gì với đức tin vào Chúa Kitô? Chúa Giêsu nói với các môn đệ một ngày kia: “Phúc cho mắt thấy điều các con thấy!” (Lc 10,23; x. Mt 13,16). Đó là một trong những xác nhận mà Chúa Giêsu cố gắng giúp các môn đệ Người trong một số dịp để khám phá căn tính đích thực của Người đối với họ, không phải để mặc khải nó cách trực tiếp bởi vì họ thiếu sự sẵn sàng để đón nhận nó.
Chúng ta biết rằng những lời nói của Chúa Giêsu là những lời “sẽ không qua đi” (Mt 24,25); chúng là những lời sống động gửi tới bất kỳ ai lắng nghe chúng với đức tin trong mọi thời và mọi nơi qua dòng lịch sử. Vì thế, đó là những lời Người nói với chúng ta ở đây và lúc này: “Phúc cho mắt anh em thấy điều anh em thấy!” Nếu chúng ta không bao giờ suy tư nghiêm túc về việc chúng ta may mắn thế nào vì được tin vào Chúa Kitô, có lẽ đây là lúc chúng ta cần làm điều đó.
Tại sao các Kitô hữu được chúc phúc nếu họ không có lý do nào hơn để vui mừng trong thế giới này và cả khi trong nhiều vùng trên thế giới tiếp tục họ bị đẩy tới cái chết, một cách chính xác bởi vì đức tin của họ vào Chúa Kitô chăng? Người cho chúng ta chính câu trả lời: “Bởi vì anh em thấy! Bởi vì anh em hiểu ý nghĩa của cuộc sống, cái chết, bởi vì “Nước Trời là của anh em” không theo nghĩa “là của anh em và không phải của người khác nữa.” (Chúng ta biết rằng Nước Trời trong chiều kích cánh chung, vượt ra ngoài những biên cương của Giáo Hội). “Nó là của anh em” theo nghĩa là anh em đã là một phần của Nước Trời, anh em đang nếm hưởng hoa quả đầu tiên của nó. Anh em có Thầy!”
Điều tuyệt vời nhất là điều mà một người vợ có thể nói với người chồng và ngược lại, là “Anh đã làm cho em hạnh phúc!” Chúa Giêsu xứng đáng mà hôn thê Người là Giáo Hội, nói với Người từ đáy lòng điều đó. Tôi nói điều này với Người và mời anh em, các bậc hiền phụ đáng kính, anh chị em, hãy làm như thế. Và hãy nói điều đó mỗi ngày như thế mà đừng bao giờ quên.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương chuyển ngữ
[1] Ulrich Laepple, ed., Messianische Juden: Eine Provokation (Göttingen: Vandenhoeck & Ruprecht, 2016).
[2] Ibid., p. 34.
[3] Pliny the Younger, “Letter to Trajan about the Christians,” The Letters of the Younger Pliny, 10, 96, trans. Betty Radice (New York: Penguin, 1963), p. 294. See also Enchiridion fontium historiae ecclesiasticae antiquae, ed. Conradus Kirch, 9th ed. (Barcelona: Herder, 1965), p. 23.
[4] Athanasius, “Defense of the Nicene Definition” (De decretis Nicenae synodi), 7, 31, in St. Athanasius: Select Work and Letters, series 2, vol. 4, Nicene and Post-Nicene Fathers, eds. Philip Schaff and Henry Wace (New York: The Christian Literature Co., 1882), p. 384.
[5] See Gregory of Nazianzen, “Letter to Cledonius,” Select Letters of Saint Gregory Nanzianzen (London: Aeterna Press, 2016), p. 5; see also PG 37, 181.
[6] Athanasius, Against the Arians, 2, 69, in St. Athanasius: Selected Works and Letters, p. 700.
[7] Ibid., 2, 70, p. 701.
[8] Immanuel Kant, Critique of Practical Reason (New York: Classical Books International, 2010), chapters 3 and 6.
[9] Athanasius, Against the Arians, 1, 18, p. 34; see also PG 26, 48.
[10] Augustine, Expositions of the Psalms 99-120, “Psalm 120,” 6, vol. 3/19, trans. Mario Boulding, ed. Boniface Ramsey, The Works of Saint Augustine, ed. John Rotelle (Hyde Park, NY: New City Press, 2003), p. 514; see CCL 40, p. 1791.
[11] St Augustine, Tractates on John, 26, 2, vol. 7, Nicene and Post-Nicene Fathers, ed. Philp Schaff (New York: Cosimo, 2007), p. 168; see also PL 35, p. 1607.
[12] The “two swords” or “two powers” theory was a medieval approach by Pope Gelasius on the relationship between the Church and the empire and the pope’s spiritual authority over kings and other rulers. “The triple reign” or the “triple crown” theory means, in some interpretations, that the pope is a universal pastor, a universal judge, and a temporal power.
[13] Johann Wolfgang von Goethe, “Mehr licht!,” quoted in The Medico-chirurgical Review and Journal of Medical Science, 24 (1834): 501.
[14] See Masterbee, Mendicante di luce: Dal Tibet al Gange e oltre (Cinisello Balsamo: San Paolo, 2006), pp. 223ff.
[15] See Paul Claudel, The Humiliated Father, Act 1, sc. 3, in Three Plays (Boston: Luce, 1945).