Phỏng vấn mục sư Martin Robra, đặc trách liên lạc giữa Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Ki tô và Giáo Hội công giáo 1/2
Ngày 21 tháng 6 này ĐTC Phanxicô sẽ viếng thăm Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô có trụ sở tại Genève bên Thụy Sĩ. Đây là tổ chức quy tụ 348 Giáo Hội Kitô gồm chính thống, anh giáo và tin lành cũng như một số các Giáo Hội Pentecostal và các Giáo Hội Phi châu độc lập.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung phần đầu bài phỏng vấn mục sư Martin Robra về biến cố này, do Linh Mục Antonio Spadaro dòng Tên thực hiện. Mục sư Robra đặc trách các liên lạc giữa Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô và Giáo Hội công giáo. Bài phỏng vấn cũng được đăng trên trang mạng của Hội Đồng bằng ba thứ tiếng Anh, Đức và Ý.
Mục sư Robra ghi nhận tầm quan trọng đặc biệt ĐTC Phanxicô dành cho Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô. Chuyến viếng thăm của ngài rất khác biệt các chuyến viếng thăm Genève của các vị tiền nhiệm là Đức Phaolo VI và Đức Gioan Phaolo II. Hai vị tiền nhiệm đã viếng thăm Thụy Sĩ và tổ chức Liên Hiệp Quốc trong tư cách là quốc trưởng của quốc gia thành phố Vaticăng. Trong khi Đức Phanxicô viếng thăm Genève trước hết như là thủ lãnh Giáo Hội công giáo, Giám Mục Roma và là Người kế vị Thánh Phêrô. Mục sư cũng cho biết hiện nay có sự cộng tác rất tốt đẹp giữa Hội Đồng Đại Kết và các cơ quan trung ương Tòa Thánh, và một nhóm của Hội Đồng đã nghiên cứu học hỏi các Tông huấn “Evangelii gaudium” và “Amoris laetitia” cũng như Thông điệp “Laudato si” của ĐTC Phanxicô, bởi vì chúng là các tài liệu đâm rễ sâu nơi giáo lý của Giáo Hội công giáo và rất đồng thanh với công việc hiệp nhất của Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô. Vì thế các tài liệu này cũng đã trở thành các điểm tham chiếu thường xuyên của Hội Đồng.
Hỏi: Thưa mục sư Martin Robra, Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Ki tô là gì? Xin mục sư cho biết lịch sử ban đầu và ý nghĩa của nó?
Đáp: Năm 1921 Đức Thượng Phụ đại kết Costantinopoli đã viết một bức thư cho các Giáo Hội Kitô khác và đề nghị thành lập một tổ chức phục vụ các Giáo Hội, một liên minh hay hiệp thông các Giáo Hội trong việc nâng đỡ nhau và tạo thuận tiện cho chứng tá chung trước thế giới. Nó sẽ là một dụng cụ thăng tiến sự hiệp nhất giữa các tín hữu kitô. Tuy nhiên, Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô không được coi như một tổ chức tập trung với trụ sở tại Genève hay như một cố gắng tạo dựng một “Giáo Hội quốc tế”. Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội là một cộng đoàn huynh đệ của 348 Giáo Hội, đa số đến từ các truyền thống chính thống, anh giáo và tin lành và cũng bao gồm một số các Giáo Hội Pentecostal và các Giáo Hội Phi châu độc lập nữa. Đối với các Giáo Hội thành viên Hội Đồng Đại Kết có nghĩa là cùng nhau bước đi với sự tin tưởng nơi nhau. Trong phần mở đầu của Hiến chương có khẳng định rằng nó là một “cộng đoàn huynh đệ của các Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ theo Thánh Kinh, và nỗ lực cùng nhau đáp trả lại ơn gọi chung cho vinh quang của một Thiên Chúa duy nhất là Cha, Con và Thánh Thần”. Trụ sở tại Genève chỉ có Văn phòng thư ký phục vụ cộng đoàn các Giáo Hội thành viên và các thành phần đại kết. Ngày mùng 2 tháng 3 năm nay nhân cuộc họp báo chung tại Vaticăng mục sư Olav Fykse Tveit, Tổng thư ký Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô, đã tuyên bố như sau: “Tin Đức Giáo Hoàng đến thăm Hội Đồng Đại Kết và thành phố Genève là một dấu chỉ các Giáo Hội Kitô có thể ra sao. Hiện nay mục sư tổng thư ký cũng đặc trách việc đào tạo thường xuyên, việc phục vụ đại kết và thăng tiến chương trình chính của Hội Đồng, theo sau hội nghị nhóm tại Busan bên Nam Hàn hồi năm 2014 về đề tài “Hành hương của công lý và hòa bình”. Mục sư Tveit cũng đã giữ nhiều chức vụ trong lãnh vực liên lạc với các Giáo Hội thành viên của Hội Đồng, với Tổ chức hiệp thông kitô thế giới, với Diễn đàn kitô toàn cầu và các thành viên khác. Sau đó mục sư cũng đã là thành viên của Phân khoa Học viện thần học Bossey, chuyên về luân lý đạo đức xã hội. Mục sư là đồng sáng lập địa chỉ trên mạng Globethics.net tại Geneve và của Học viện nghiên cứu liên tôn và liên văn hóa Liechtenstein.
Hỏi: Tôi cũng đã đọc thấy rằng có một ý thức sứ mệnh riêng làm nền cho Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô ngay từ ngày thành lập, có đúng thế không?
Đáp: Vâng đúng thế. Một thúc đẩy quan trọng cho việc thành lập Hội Đồng Đại Kết đến từ việc cần cộng tác trong sứ mệnh truyền giáo. Người ta thường quy chiếu Hội nghị truyền giáo quốc tế năm 1910 như điểm khởi hành của phong trào đại kết tân tiến, mặc dù Liên hiệp sinh viên kitô và các tổ chức khác của giới trẻ dã soạn thảo ý tưởng đại kết này từ trước.
Cuộc khủng hoảng của đệ nhất thế chiến đã đã củng cố ý chí của các vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô tạo ra các phong trào không chỉ hướng tới việc truyền giáo nhưng cũng hướng tới sự hiệp nhất và thăng tiến công lý và hòa bình trên thế giới. Đó là phong trào “Đời sống và việc làm” thành lập tại Stockholm 1925, và phong trào “Đức tin và Trật tự” thành lập tại Lausanne năm 1927. Chính hai phong trào này năm 1936 đã khởi động tiến trình thành lập Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô, bị ngưng lại vì đệ nhị thế chiến. Sau cùng Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô đã được thành lập năm 1948 với hội nghị đầu tiên nhóm tại Amsterdam bên Hòa Lan. Và đó là lý do tại sao năm 2018 này chúng tôi mừng kỷ niệm 70 năm thành lập. Hội Đồng đã trở thành một tổ chức toàn cầu trong hội nghị triệu tập tại New Dehli năm 1961 với việc gia nhập của Hội đồng truyền giáo quốc tế IMC và của các Giáo Hội chính thống Trung và Đông Âu. Hiến chương của Hội Đồng diễn tả các mục đích một cách rõ ràng: “Mục đích của Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô là tiến bước tới sự hiệp nhất hữu hình trong một niềm tin duy nhất và một cộng đoàn thánh thể duy nhất, được điễn tả ra trong phụng tự và cuộc sống chung trong Chúa Kitô qua chứng tá và việc phục vụ thế giới và tiến tới sự hiệp nhất để cho thế giới tin”.
Chuyến viếng thăm của Đức Phanxicô sẽ là một dịp giúp minh nhiên các đích điểm quan trọng đã đạt được, và giúp đương đầu với các thách đố tương lai của phong trào đại kết. Như quý vị thấy hiện nay. Cho tới ít năm gần đây chúng ta đã quen nói tới “mùa đông đại kết”. Nhưng vị Tổng thư ký của chúng tôi, mục sư Olav Fykse Tveit, người Na Uy, đã thích nói rằng không có gì sai cả: chỉ cần có găng tay và áo ấm thôi. Tuy nhiên, đối với tôi xem ra là với Đức Phanxicô và các sáng kiến của ngài một mùa xuân mới đã tới. Sự kiện ngài tham dự vào buổi cầu nguyện và cử hành 500 năm Cải Cách tại Lund đã khích lệ tôi rất nhiều. Hồi đó khẩu hiệu của các cử hành đã là “Từ xung đột tới hiệp thông” và điều này đã trở thành sự sống. Nhưng không phải chỉ đã xảy ra tại Lund: các Giáo Hội toàn thế giới đã cùng nhau cử hành việc chữa lành ký ức các vết thương của cuộc Cải Cách. Chúng ta đừng quên biết bao nhiêu chiến tranh đã được nuôi dưỡng từ đó. Chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng tại Lund đối với tôi xem ra đã là một thời điểm quan trọng.
Hỏi: Điều gì đã đánh động mục sư nhất trong các biến cố xảy ra tại Lund?
Đáp: Tôi đã bị đánh động bởi sự kiện các diễn văn đã tập trung nơi các thách đố của hiện tại và tương lai, trên con đường phải đi. Lund đã trở thành thời điểm của sự hiệp nhất dọc lộ trình. Chúng ta còn trông thấy điều này một cách rõ ràng hơn nữa, khi nhớ rằng trên con đường dẫn tới Lund các tín hữu Luther và công giáo đã gặp gỡ nhau lần đầu tiên hồi năm 1999 tại Augsburg để ký Tuyên ngôn chung giáo lý về sự công chính hóa. Tôi thấy hai cột mốc này hấp dẫn, vì chúng trở thành các điểm tham chiếu giúp chúng ta trông thấy con đường dài từ đó chúng ta tới và làm sao cùng nhau bước đi trong tương lai. Tuyên ngôn chung nhắc cho chúng ta nhớ tới sáng kiến của Thiên Chúa đối với ơn cứu rỗi của thế giới, sáng kiến đến trước tất cả. Thiên Chúa đang đến với chúng ta qua ơn thánh. Tuyên ngôn tại Lund chứng minh rằng biến cố tại Augsburg hồi năm 1999 và cuộc du hành chung đã dẫn đưa chúng ta tới đó thật sự đã biến đổi nhiều người trong chúng ta. Trở lại đó chúng ta đã nhận ra tầm quan trọng của các kỷ niệm quá khứ, bị ghi dấu bởi các vết thương và bị thù hận đầu độc. Hầu như nó là một lúc giải thoát, tái khám phá… Chúng ta đã cảm thấy mình tự do, không lập lại các kiểu nói thuộc lòng đã đào sâu sự chia rẽ các Giáo Hội và các cộng đoàn, và đưa tới bạo lực và cả chiến tranh trong các thế kỷ tiếp theo cuộc Cải Cách. Trái lại chúng ta đã khám phá ra một gia tài chung to lớn. Trong cách thức này chúng ta đã trở thành cùng nhau có trách nhiệm đối với quá khứ cũng như đối với tương lai, và không còn cô đơn và tách rời nhau nữa. Thay vì xa cách nhau, chúng ta có thể cùng đi và chia sẻ với những người khác các lịch sử của chúng ta, các niềm hy vọng và các chờ mong của chúng ta đối với tương lai của các Giáo Hội và của thế giới.
Hỏi: Tuyên ngôn chung đã cho thấy rằng các Giáo Hội Luther và Giáo Hội công giáo giờ đây có thể loan báo một sự hiểu biết chung về sự công chính hóa do ơn thánh Chúa làm ra qua niềm tin nơi Chúa Kitô, có phải vậy không thưa mục sư?
Đáp: Dĩ nhiên là còn có rất nhiều thách đố quan trọng… Chắc chắn rồi, và không phải là cuối cùng các căng thẳng liên quan tới các vấn đề luân lý đạo đức của con người và của tính dục. Nhưng cùng nhau chúng ta có khả thể chứng minh cho thế giới thấy những gì kết hiệp chúng ta thì nhiều hơn là những gì chia rẽ chúng ta. Trước mặt chúng ta có con đường không dễ dàng đưa mọi tín hữu kitô tới một cuộc đối thoại và một sự cộng tác chặt chẽ hơn và cùng nhau dấn thân trong cuộc đối thoại liên tôn và trong việc cộng tác cho thiện ích của hòa bình và sự triển nở cuộc sống. Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Ki tô cần xây dựng các cây cầu bên ngoài con số các thành viên của mình, đại diện cho 560 triệu kitô hữu sống tại 110 quốc gia trên toàn thế giới. Giáo Hội công giáo không phải là thành viên của Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội, nhưng tham dự trong tính cách “quan sát viên” và cộng tác vào nhiều lãnh vực từ năm 1965 là năm Công Đồng Chung Vaticăng kết thúc – một cách đặc biệt trong “Ủy ban đức tin và hiến chế” và trong Ủy ban “Truyền giáo và loan báo Tin Mừng”
Hỏi: Thưa mục sư Robra, dựa trên lịch sử của các tương quan đã có và trên các tương quan hiện nay với ĐGH Phanxicô, Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Ki tô có các liên lạc nào với Giáo Hội công giáo?
Đáp: Sự cộng tác của chúng tôi với các cơ quan trung ương Tòa Thánh đã tốt hơn nhiều. Đặc biệt là với Hội Đồng Tòa Thánh thăng tiến hiệp nhất giữa các tín hữu kitô, đối thoại liên tôn, cũng như với Bộ mới phục vụ sự phát triển con người toàn vẹn. Không phải trước đây các liên lạc đã xấu, nhưng hiện nay có nhiều không gian và sự sẵn sàng hơn cho một sự cộng tác ý nghĩa vượt ngoài việc đối thoại thần học giữa các Giáo Hội, là nhiệm vụ của Hội đồng hiệp nhất các kitô hữu. Cũng có lý do để mừng các chinh phục khác nữa của sự công tác như sự đồng quy liên quan tới các văn bản về Đức tin và trật tự, và tuyên ngôn về việc truyền giáo mới của Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Ki tô “Cùng nhau đối với đức tin” hay việc cộng tác tốt hơn nhiều cho người di cư và tỵ nạn. Cộng thêm với Tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các ki tô hữu, và tại nhiều nơi trên thế giới cũng đã được duy trì và cử hành Ngày quốc tế cầu nguyện cho việc săn sóc thụ tạo. Tại một vài nơi việc cử hành này cũng có sự tham dự của tín hữu các tôn giáo khác. Chúng tôi cầu mong rằng chuyến viếng thăm của ĐTC Phanxicô tại Genève gửi đi một tín hiệu mạnh mẽ để mọi kitô hữu chia sẻ dấn thân đào sâu sự hiệp nhất của các Giáo Hội đang tiến bước, và cùng nhau tham dự vào sứ mệnh bảo vệ sự sống, công lý và hòa bình trên thế giới.
Hỏi: Thông điệp “Laudato si” đã có tiếng vang nào bên trong Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Ki tô? Và các tông huấn “Evangelii gaudium” và “Amoris laetitia” đã được Hội Đồng Đại Kết đón nhận như thế nào, thưa mục sư?
Đáp: Các tông huấn “Evangelii gaudium” và “Amoris laetitia” cũng như thông điệp “Laudato si” đã được học hỏi bởi nhóm hoạt động của Hội Đồng Đại Kết, vì chúng có một lên quan chặt chẽ với công việc của chúng tôi. Chúng tôi đã tổ chức các khóa hội thảo cho các cộng sự viên để tìm hiểu các tài liệu này. Chúng tôi chưa làm với tài liệu “Gaudete et exultate”. Tất cả chúng đều là các tài liệu đâm rễ sâu trong giáo lý của Giáo Hội công giáo, nhưng đồng thanh với công việc hiệp nhất của Hội Đồng Đại Kết. ĐTC Phanxicô không phải là vị Giáo Hoàng đầu tiên được tiếp đón tại Genève. Trước ngài đã có các chuyến viếng thăm của Đức Phaolô VI tháng 6 năm 1969, và Đức Gioan Phaolô II tháng 6 năm 1984.
Hỏi: Đâu là ý nghĩa chuyến viếng thăm sắp tới này của Đức Phanxicô? Thật đáng gây ngạc nhiên sự kiện Đức Phanxicô lại chú ý đến Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô như vậy trong chuyến viếng thăm Genève.
Đáp: Đây là một sự kiện rất khác biệt đối với hai chuyến viếng thăm trước đây của Đức Phaolô VI và Đức Gioan Phaolô II. Hai chuyến viếng thăm hồi đó là dành cho Thụy Sĩ và các bàn giấy của Liên Hiệp Quốc và trong tư cách là quốc trưởng nước thành phố Vaticăng. Trong khi ĐTC Phanxicô đến trước hết như là thủ lãnh của Giáo Hội công giáo, Giám Mục Roma và là Người kế vị Thánh Phêrô. Ngài từ Roma sang Genève. Chúng tôi hy vọng rằng cùng nhau chúng ta tiếp tục “cuộc hành hương của công bằng và hòa bình” hướng tới những người sống ngoài lề xã hội, những người khát khao công lý và hòa bình trong một thế giới bị bạo lực đánh phá, với các tương quan chính trị và kinh tế bất công. Thật là một thiện ích sự kiện ĐTC Phanxicô đến thăm ít lâu sau khi Ủy ban trung ương của chúng tôi kết thúc công việc. Trung tâm đại kết Genève sẽ đông đặc các thành viên của các Giáo Hội thành viên và các anh em đại kết đại diện cho mọi chiều kích của phong trào. Chuyến viếng thăm của Đức Phanxicô chứng minh tính cách hiệp nhất của phong trào đại kết, mà Giáo Hội công giáo có liên lạc mật thiết, bằng cách công bố sắc lệnh về đại kết “Unitatis redintegratio”. Thế giới trông thấy nơi ĐTC một tiếng nói định đoạt của Kitô giáo quốc tế, cùng với Đức Thượng Phụ đại kết Bartolomaios và ít vị lãnh đạo giáo hội khác. Sẽ thật là một bước tiến tới lớn lao, nếu rõ ràng là ĐTC không chỉ nói trong thiện ích của Giáo Hội công giáo Roma, mà cũng trình bầy trước Giáo Hội duy nhất thánh thiện công giáo và tông truyền với những anh em cho tới này còn tách rời. ĐTC Phanxicô hay nói về Giáo Hội đi ra, hướng tới những ai ở ngoại biên.. Và ngài cũng khẳng định rằng sự hiệp nhất được đào sâu, khi cùng nhau bước đi. ĐTC Phanxicô hay nói về sự hiệp nhất các Giáo Hội như là sự hiệp nhất trên đường đi. Sau hội nghị tai Busan năm 2013 Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô sắp xếp toàn công việc của mình trong khung cảnh của cuộc hành hương tiến về công lý và hòa bình: chúng ta đang cùng nhau bước đi như các môn đệ của Chúa Kitô. Chúng ta sẽ có thể bước đi một cách tách rời trong một ít thời gian, nhưng cũng có những lúc trong đó chúng ta hiệp nhất. Khi chúng ta cùng nhau nhớ lại điều gì xảy ra trên đường, chúng ta canh tân dấn thân cho cuộc hành hương chung, và chúng ta tiếp tục hành trình với một ý thức chia sẻ hướng đi và mục đích. Vâng, và khi bước đi có thể cùng nhau phân định các cảnh qua đó lộ trình tiến tới một cách rõ ràng… Chúng ta nâng đỡ nhau trong chứng tá chung. Cùng nhau chúng ta đang làm được rất nhiều, nhưng chúng ta có thể làm nhiều hơn nữa, và cho thấy rõ hơn nữa chúng ta đang cùng bước đi bên cạnh nhau. ĐTC Phanxicô đã tới thăm Lesbo cùng với Đức Thượng Phụ Bartolomaios, và tại Cuba ngài đã gặp gỡ Đức Thượng Phụ Matscơva lần đầu tiên. Ngài đã tới Lund để tưởng niệm 500 năm Cải Cách. Ngài đã thăm cộng đoàn Luther và cộng đoàn Anh giáo tại Roma và cũng thăm cộng đoàn tin lành Valdese tại Torino… Sứ điệp của ngài không nhấn mạnh trên việc tiếp tục cuộc đối thoại thần học nhưng trên việc cùng nhau làm vài điều “như thể” chúng ta đã là một, bằng cách tập trung vào viêc rao truyền Tin Mừng và làm chứng tá chung mà thế giới đòi hỏi, chẳng hạn như vấn đề của những người di cư.
Hỏi: Mục sư có ý kiến gì liên quan tới vấn đề này? Có thể nghĩ tới một bước tiến mới dựa trên tư tưởng “như thể chúng ta đã là một” hay không?
Đáp: Có. Chúng ta đã thấy rằng ĐTC Phanxicô hành động như “người xây các cây cầu”. Tôi rất biết ơn quý vị về câu hỏi này và kiểu quý vị hỏi. Chắc quý vị nhận ra mỗi khi tôi nói tới “Cuộc hành hương của công lý và hòa bình” và tới sự hiệp nhất cần đào sâu trong khi bước đi, tôi nuôi một niềm hy vọng thực tiễn nơi tương quan giữa các Giáo Hội “như thể” chúng đã là một duy nhất. Trong các năm đầu tiên của Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Ki tô Ủy ban trung ương đã khẳng định “nguyên tắc Lund” đưa ra câu hỏi này: “các Giáo Hội của chúng ta lại không phải cùng nhau hành động trong tất cả mọi vấn đề, ngoại trừ các vấn đề trong đó có các xác tín khác biệt bắt buộc phải hành động riêng rẽ hay sao?”. Các Giáo Hội Kitô có thể cùng nhau làm nhiều hơn trong việc loan báo Tin Mừng, trong hoạt động trên bình diện công cộng, trong việc phục vụ và mục vụ cũng như trong chứng tá chung cho Thiên Chúa Ba Ngôi nhưng duy nhất, là Đấng đã dựng nên chúng ta trong sự khác biệt, đã hòa giải chúng ta trong Chúa Kitô và khiến cho chúng ta nên môt trong Chúa Thánh Thần.
Hỏi: Hồi tháng 3 năm nay Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô đã nhóm hội nghị truyền giáo quốc tế 2018 tại Arusha bên Tanzania. Hội nghị đã quan niệm truyền giáo như một sinh hoạt đa giá trị bao gồm việc làm chứng tá qua lời nói việc làm cho con người của Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Chúa, qua dấn thân hoạt động cho công lý và hòa bình và hòa giải giữa tất cả mọi dân tộc và bên trong toàn thụ tạo. Đâu là sứ điệp ngôn sứ được diễn tả ra trong hội nghị này thưa mục sư?
Đáp: Hội nghị đã lôi cuốn nhiều thừa sai công giáo, tin lành và pentecostist, tất cả khoảng 1.000 tham dự viên. Họ đã cùng nhau soạn thảo “Lời kêu gọi sống đời môn đệ Arusha “. Khi suy tư về đề tài “đời môn đệ biến đổi” trong hội nghị, tuyên ngôn này bao gồm một phê bình ngôn sứ hệ thống tài chánh và các cơ cấu kinh tế hiện nay đã đưa tới các độ cao bất bình đẳng gây gương mù gương xấu, loại trừ hàng triệu người. Nó rất đồng thanh với tông huấn Niềm vui Phúc Âm và tông hiến Laudato si. Tuyên ngôn khẳng định rằng sống đời môn đệ là một ơn, nhưng cũng là một kêu gọi trở thành các cộng sự viên tích cực của Thiên Chúa trong việc biến đổi thực tại. Điều này có nghĩa là phải lo lắng cho con người cũng như cho sự khổ đau của thụ tạo, bằng cách kiếm tìm công lý và hòa bình. Trong cách thế này chúng ta đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu đi theo Ngài ra các vùng ngoại biên của thế giới. Tài liệu suy tư về đề tài chính của Hội nghị, liên quan tới việc sống ơn gọi môn đệ biến đổi và về quyền năng của Chúa Thánh Thần, là Đấng an ủi, bênh vực và nâng đỡ. Xa hơn nó khẳng định rằng chúng ta được kêu mời là những người lãnh đạo phục vụ và cho thấy con đường của Chúa Kitô trong một bối cảnh dành ưu tiên cho quyền lực, giầu sang và nền văn hóa của tiền bạc. Trong số các lời kêu gọi biến đổi khác cũng có lời kêu gọi sau đây hướng tới các Giáo Hội: “Chúng ta được mời gọi như là các môn đệ cùng nhau thuộc về một cộng đoàn công chính và bao gồm, trong việc kiếm tìm sự hiệp nhất và trên con đường đại kết, trong một thế giới dựa trên việc gạt bỏ ngoài lề và loại trừ”. Văn bản kết thúc với một lời cầu nguyện trong đó nhấn mạnh rằng dấn thân của các môn đệ hiệp nhất trong Chúa Thánh Thần được thực hiện “trong khi cùng nhau bước đi, cầu nguyện và làm việc”. Và đó chính là khẩu hiệu chuyến viếng thăm của ĐTC Phanxicô tại Genève.
Hỏi: Hiện nay đâu là thách đố chính của phong trào đại kết các Giáo Hội Kitô?
Đáp: Phong trào đại kết có một chiều kích cánh chung mạnh mẽ, diễn tả trước Nước của Thiên Chúa, là Đấng đã tạo dựng nên mọi sự sống và một gia đình nhân loại duy nhất, là Đấng đã hòa giải chúng ta trong Chúa Kitô và nâng đỡ hướng dẫn chúng ta trên lộ trình qua quyền năng của Chúa Thánh Thần. Điều này rộng mở chân trời của công lý và hòa bình cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, thực tại vẫn còn rất là từng mảnh và bị ghi dấu bởi sự tranh đua quyền bính và giầu sang. Các căn tính đối nghịch nhau cho tới nay đã được yểm trợ bởi các nền văn hóa và một phần cả bởi tôn giáo nữa. Vẫn còn có một con đường dài phải đi, trước khi có thể trông thấy một mảnh đất chung toàn cầu, trong đó các nền văn hóa và các tôn giáo tác động trên nhau một cách hài hòa: nghĩa là một thực tại khác với lớp vỏ rất tinh vi và hời hợt, mà nền văn hóa tiêu thụ và các phương tiện truyền thông toàn cầu yểm trợ chúng đề nghị với chúng ta. Chúng ta còn có một con đường dài phải đi, trước khi căn nhà chung của chúng ta đâm rễ sâu trong tâm trí con người. Tôi coi các khó khăn mà chúng ta đang phải đương đầu như là “các đau đớn của việc sinh nở” của chiều kích mới của các nền văn hóa và các tôn giáo.
Hỏi: Thưa mục sư, tôi có cảm tưởng rằng trong các năm qua có nhiều chương trình của Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô và Tòa Thánh đã xích lại gần nhau và sự cộng tác giữa hai bên đã gia tăng. Đâu là chinh phục chính của phong trào đại kết trong thời gian này?
Đáp: Các thành công chính của phong trào đại kết theo tôi là rất nhiều trường hợp, trong đó phong trào đã góp phần vào nền hòa bình và hòa giải trong rất nhiều cách thế cụ thể. Cả lịch sử cá nhân của tôi cũng là một phản ánh của nó. Mẹ tôi đã sống sót sau cái lạnh mùa đông của đệ nhị thế chiến nhờ một cài lò sưởi, nhận được như quà của các văn phòng Phục vụ đại kết trợ giúp người tỵ nạn do Giáo Hội Thụy Điển yểm trợ. Tôi đã trông thấy phong trào đại kết dưỡng nuôi cuộc đối thoại giữa Đông Tây, góp phần vào nền hòa bình, và sau cùng vào sự sụp đổ của bức tường Berlin và sự thống nhất hòa bình của nước Đức. Tôi đã ở bên Colombia hồi tháng hai vừa qua và tôi đã thấy các Giáo Hội cùng nhau tham gia một cách ý nghĩa vào tiến trình hòa bình còn mong manh như thế nào. Tôi nghĩ rằng các Giáo Hội cũng có một vai trò quan trọng trong việc đương đầu với thách đố của sự thay đổi khí hậu như một nhiệm vụ chung đối với tất cả chúng ta, nhưng nhất là đối với những người đã góp phần nhiều hơn vào việc thải thán khí khiến trái đất bị hâm nóng. Thề rồi Giáo Hội đang tiến bước là một dân được định nghĩa bởi một niềm hy vọng. Hy vọng thường có nghĩa là có khả năng trông thấy xa hơn điều ta trông thấy, và chờ đợi một cái gì hơn nữa và khác… Chắc chắn thế, và tôi có thể còn kể ra nhiều trường hợp khác nữa, trong đó sự cộng tác đại kết đã là một nguồn hy vọng cụ thể đối với những người đang phải khổ đau vì bất công và bạo lực.
Linh Tiến Khải
(RadioVaticana 17.06.2018)