“Men” Pharisêu
Lc 12,1-7
1 Trong lúc ấy, đám đông tụ họp hàng vạn người, đến nỗi giẫm lên nhau. Bấy giờ Đức Giê-su bắt đầu nói, trước hết là với các môn đệ : “Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả. 2 Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. 3 Vì thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày ; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.
4 “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết : Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. 5 Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai : hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết : anh em hãy sợ Đấng ấy. 6 Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không ? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. 7 Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
(Nguồn: Ủy Ban Thánh Kinh / HĐGMVN)
Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. (Lc 12,2)
A. Phân tích (Hạt giống…)
1. Câu 1-3 : Đoạn trước (11,37-54) đã cho ta thấy Chúa Giêsu bị nhóm pharisêu và nhóm luật sĩ bắt lỗi trong một bữa ăn. Câu chuyện đó khiến Ngài muốn cảnh giác các môn đệ mình hai điều. Điều thứ nhất là hãy coi chừng thói giả hình của người pharisêu : một mặt là đừng giả hình như họ, mặt khác các môn đệ hãy đặt mình vào hàng “các ngôn sứ và các tông đồ” (c 49) để lo rao giảng sứ điệp của Thiên Chúa và sẵn sàng chịu bách hại vì sứ mạng đó.
– “Men pharisêu” : Chữ “men” được Chúa Giêsu dùng ở đây muốn nói đến một thứ ẩn giấu trong bột để từ từ làm cho bột bị hư đi không còn là bột tinh tuyền nữa. Thái độ giả hình của người biệt phái cũng giống như vậy vì nó có thể lây lan làm hại nhiều người khác. Các môn đệ hãy coi chừng đừng để mình bị lây nhiễm thói xấu đó vì nếu bị nhiễm thì đến phiên họ cũng sẽ lây nhiễm sang nhiều người khác trong Giáo Hội.
– Không giả hình tức là ta như thế nào thì tỏ ra thế ấy, bởi vì “Không có gì che dấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết”. Chú ý, câu này cũng được Mt ghi lại (Mt 10,27) nhưng trong một văn mạch khác nên mang ý nghĩa khác : Trong Mt nó muốn nói đến việc rao giảng Tin Mừng.
– Chúa Giêsu quảng diễn thêm ý tưởng trên bằng hai kiểu nói nữa : “Tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày ; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín sẽ được công bố trên mái nhà”. Nên nhớ mái nhà ở do thái là nóc bằng nên cũng là nơi người ta thường lên để trò chuyện và thông báo tin tức cho nhau.
2. Câu 4-7 : Điều thứ hai Ngài khuyên là đừng sợ sự thù nghịch của thế gian đối với người tông đồ của Chúa. Ngài đưa nhiều lý do để thuyết phục các môn đệ :
– Lý do thứ nhất là các quan quyền thế gian cùng lắm chỉ giết được thân xác của ta chứ không giết được sự sống thật của ta là điều thuộc về quyền độc hữu của Thiên Chúa. Bởi vậy nên sợ Thiên Chúa hơn.
– Không những đừng sợ các quan quyền thế gian, mà còn phải phó thác vào Thiên Chúa quan phòng : Đấng luôn chăm sóc từng con chim sẻ và từng sợi tóc trên đầu chúng ta lẽ nào lại không chăm sóc những người làm sứ mạng Ngài giao hay sao ! (Về chi tiết chim sẻ : Mt 10,29 ghi hai con chim sẻ bán được một xu. Ở đây Lc ghi năm con bán một xu. Lc muốn nhấn mạnh hơn nữa ý tưởng Thiên Chúa chăm sóc những vật rất tầm thường).
B. Suy niệm (…nẩy mầm)
1. Đừng sợ : “Chúa Giêsu đưa ra lời trấn an này vào giữa lúc các môn đệ Ngài nhận ra sự chống đối của biệt phái đối với Chúa Giêsu. Theo Chúa Giêsu Kitô, người môn đệ đồng chịu số phận chống đối. Đó là chuyện đương nhiên, không thể có con đường nào khác. Ngay trong chính bản thân, những xâu xé, giằng co cũng là chuyện không thể tránh được. Thế nhưng Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy an tâm, bởi vì Thiên Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta. Ngài không cất khỏi chúng ta những chống đối, đau khổ và sự chết. Ngài chỉ cho chúng ta thấy đâu là ý nghĩa của đau khổ, đâu là cùng đích cuộc đời” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
2. Chúa quan phòng : “Bài phúc âm hôm nay cho thấy Thiên Chúa quan phòng mỗi người con cái Chúa. Chúa bảo đảm rằng Chúa lo lắng cho từng con chim trời không con nào chết đói, từng bông hoa huệ nay còn mai mất mà có được màu trắng vương giả, thì con người quí giá ngàn trùng, càng được Chúa bảo trợ…” (Trích “TMCGK ngày trong tuần”).
3. Một hôm Đức Ala gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh : “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ”. Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy ? Nhưng lời van xin của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.
Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con ? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên : “Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.” (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Xem thêm:
Bài đọc 1: Rm 4,1-8
1 Vậy phải nói sao về ông Áp-ra-ham, tổ phụ dân tộc chúng tôi ? Ông đã được gì ? 2 Giả như ông Áp-ra-ham được nên công chính vì những việc ông đã làm, thì ông có lý do để hãnh diện ; nhưng không phải là hãnh diện trước mặt Thiên Chúa. 3 Thật vậy, Kinh Thánh nói gì ? Ông Áp-ra-ham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính. 4 Người nào làm việc, thì lương trả cho người ấy không được kể là ân huệ, mà là nợ. 5 Trái lại người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính. 6 Đó là điều vua Đa-vít nói khi ca tụng hạnh phúc của người được Thiên Chúa kể là công chính mà không xét đến việc làm : 7 Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung ! 8 Hạnh phúc thay người Chúa không kể là có tội ! Không phải vì chịu phép cắt bì
(Nguồn: Ủy Ban Thánh Kinh / HĐGMVN)