Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi các mục tử hơn ai hết phải là những sứ giả của lòng thương xót Chúa:
“Tôi sẽ không bao giờ mệt mỏi nhấn mạnh rằng các cha giải tội là dấu chỉ xác thực cho lòng thương xót của Chúa Cha… Các linh mục chúng ta đã nhận được ân sủng của Chúa Thánh Thần, để tha tội, và chúng ta chịu trách nhiệm về việc này. Không ai trong chúng ta nắm giữ quyền lực trên Bí Tích này; thay vào đó, chúng ta là những tôi tớ trung tín của lòng thương xót Chúa qua Bí Tích ấy” (Misericordiae vultus số 17).
Để thực sự trở thành khí cụ của lòng thương xót Chúa, các mục tử cần thực hiện một cuộc “hoán cải mục vụ” triệt để hơn, nghĩa là cần có một sự thay đổi về cách hành xử, thái độ phục vụ, tiêu chuẩn mục vụ và cả đời sống sao cho phù hợp hơn với Tin Mừng và với Giáo huấn Giáo Hội hiện nay. Sau đây là một số gợi ý giúp thực hiện cuộc hoán cải này.
1- Thương xót hơn là nghiêm khắc
Đức Giêsu Kitô mạc khải cho chúng ta biết gương mặt đích thực của Thiên Chúa không phải là một gương mặt khó tính và ưa trả thù, nhưng là một vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Trong tư cách là Mục Tử nhân lành, Chính Chúa Giêsu đã thi hành sứ vụ cứu độ nhân loại với lòng thương xót hơn là thái độ nghiêm khắc, loại trừ.
Khi khai mạc Công Đồng Vatican II, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã chọn “lòng thương xót hơn là kết án” làm định hướng mục vụ cho Giáo Hội trong thế giới hôm nay. Ngài nói: “Giáo Hội luôn chống lại những sai lầm qua các thời đại. Giáo Hội thường lên án chúng với thái độ rất nghiêm khắc. Tuy nhiên bây giờ, Hiền Thê của Chúa Kitô ưu thích sử dụng liều thuốc của lòng thương xót hơn là sự nghiêm khắc”.[1]
Hạn từ misericordia trong tiếng Latin là sự kết hợp bởi hai từ misereri có nghĩa là đau khổ, thương xót; và từ corsnghĩa là trái tim. Nó diễn tả một trái tim biết thương xót và đau nỗi đau của người khác như trái tim của người mẹ đau nỗi đau của người con, như trái tim của Chúa Giêsu bị đâm thủng vì đau nỗi đau của nhân loại.
Còn hạn từ “nghiêm khắc” là thái độ của những người duy ý chí, nệ luật và cứng nhắc đối với người khác mà không chút xót thương, nhất là đối với những người tội lỗi.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn các mục tử của Chúa tiếp tục áp dụng nguyên tắc “thương xót” như là “liều thuốc” để đưa con người thời nay về với Thiên Chúa. Đây là dấu chỉ thời đại và cái nhìn ngôn sứ. Bởi lẽ, nếu một Giáo Hội quá nghiêm khắc, duy luật và gây khó khăn thì chẳng những không giúp được gì cho các linh hồn mà còn trở thành nguyên cớ làm cho họ xa rời Thiên Chúa.
Là hiện thân của Chúa Kitô, các mục tử trước hết phải có lòng thương xót, lòng thương cảm, hay nói cách khác, có trái tim mục tử của Chúa Giêsu để có thể đồng cảm, đồng hành và chia sẻ vui buồn với mọi người, nhất là với những người đau khổ. Nếu bác ái mục tử là linh hồn của đời sống và sứ vụ linh mục, thì hoạt động mục vụ của các mục tử phải là một sự biểu lộ đức ái của Chúa Kitô mà các mục tử là hình ảnh phản chiếu. Các mục tử phải biết biểu lộ các thái độ và hành vi của Chúa đến mức hiến mình hoàn toàn vì đàn chiên được giao phó.[2]
Ngày hôm nay, ở Việt Nam, người ta đã rất dị ứng với cung cách làm việc của những cảnh sát giao thông, của nhân viên hải quan ở một số phi trường, hoặc của một số quan chức nhà nước, bởi vì họ hành xử theo kiểu “bắt bẻ, gây khó dễ để kiếm chác”, hay theo cơ chế “xin – cho”.
Sống trong một thế giới phẳng, chủ nghĩa độc tài, độc đoán hay chủ nghĩa “giáo sĩ trị” sẽ dần dần không còn chỗ để tồn tại. Các mục tử phải tỉnh thức và xa tránh những lối hành xử trên. Thay vì thái độ khắt khe, trừng phạt và gây khó khăn, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi các mục tử không bao giờ mỏi mệt trong việc thực thi và chuyển thông lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa đối với mọi người. Ngài nói rằng: “Các linh mục đừng sợ khi phải thương xót và tha thứ quá nhiều. Nếu linh mục nào đó cảm thấy mình đã tha thứ quá nhiều thì nhớ lại câu chuyện về một linh mục nọ đến cầu nguyện với Chúa rằng : “Lạy Chúa, con xin lỗi Chúa vì con đã tha thứ quá nhiều, nhưng tại vì Chúa đã làm gương xấu cho con”.
Vì thế, các mục tử hãy tạo điều kiện hết sức có thể để giúp mọi người đến với Thiên Chúa và Giáo Hội. Tuy nhiên, chọn lựa hành xử theo lòng thương xót không có nghĩa là “laissez faire” – để mặc cho người ta muốn làm gì thì làm. Lòng thương xót Chúa là ân ban nhưng không luôn bao hàm sự hy sinh, kỷ luật và hoán cải từ phía con người.
2- Mục tử hơn là công chức
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã nhiều lần lưu ý rằng chúng ta cần tránh một thứ quan niệm giảm thiểu và phiến diện về linh mục. Theo đó, thiên chức này được coi như là một “thứ nghề nghiệp”, một “địa vị” hay “một đặc ân” trong Giáo Hội. Vì thế các mục tử hành xử như những “công chức” của Giáo Hội. Nếu là công chức, thì sau khi làm xong phận vụ, họ được tự do sống cho riêng mình. Lối nhìn này chỉ chú trọng tới chức năng mà ít chú trọng tới căn tính linh mục. Nếu căn tính của linh mục trống rỗng, thường sẽ được lấp đầy bởi những lối sống không phù hợp với chính sứ vụ linh mục. Linh mục không phải là công chức, mà còn cao cả hơn một công chức !
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông Huấn về Pastores Dabo Vobis định nghĩa căn tính và sứ vụ linh mục như sau:
“Linh mục là hình ảnh sống động và trong suốt của Đức Kitô Linh Mục (Cf. PDV 12). Nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, linh mục được biến biến đổi ngay trong chính con người của mình, nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử; linh mục tham dự vào sứ vụ “loan báo Tin Mừng cho người nghèo nhân danh Chúa Kitô và thay mặt Chúa Kitô” (PDV, số 18).
Khi nói về mối liên hệ giữa linh mục với Chúa Kitô và Dân Chúa, Đức Giáo Hoàng Phanxicô quả quyết: “Linh mục chân chính là người được Thiên Chúa xức dầu để phục vụ Dân Chúa, linh mục có quan hệ mật thiết với Chúa Giêsu: khi thiếu quan hệ này, thì linh mục trở thành người không còn được xức dầu nữa, thành người thờ ngẫu tượng, thờ thần là cái tôi của mình”. Đức Giáo Hoàng nói thêm: “Nếu linh mục xa Chúa Giêsu, linh mục phải tìm bù trừ tình trạng này bằng những thái độ trần tục khác. Và như thế có những thứ linh mục kinh tài, linh mục doanh nhân…”.
Vượt lên chủ nghĩa công chức (fonctionnalisme), Đức Giáo Hoàng mời gọi các mục tử hãy “mang lấy mùi chiên”. Mang lấy mùi chiên là gì nếu không phải là trở nên một người mục tử ở giữa đoàn chiên, gần gũi với đàn chiên và sống chết cho đàn chiên.
Nhưng theo thiển ý, để mang “mùi chiên” trước hết linh mục phải có “mùi mục tử”, để chiên ngửi thấy mùi đó mà theo như Chúa Giêsu nói: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Ga 10,27). Mùi mục tử là mùi hương nhân đức của Chúa Giêsu; là mang lấy tâm tình và cách sống của Chúa; là nên giống Chúa Giêsu. Linh mục được xức dầu để có mùi mục tử. Đây là yếu tố làm nên căn tính của linh mục.
Như thế, nếu linh mục không có “mùi mục tử” thì chỉ là những kẻ chăn thuê, chỉ là người quản trị, là một công chức. Công tác mục vụ chỉ là một thứ dịch vụ. Chức linh mục chỉ là một thứ nghề nghiệp, hay một địa vị trong Giáo Hội mà thôi. Từ đó ta mới hiểu tầm quan trọng của chữ “là linh mục” (l’être) quan trọng biết bao so với chữ “làm linh mục” (le faire).
3- Thay đổi cung cách và phương thức phục vụ
Câu chuyện thần thoại cổ của Sufi nói về Người săn dưa hấu phần nào làm sáng tỏ vấn đề đang được nói ở đây:
Ngày xưa, có một người đi lạc vào trong một thế giới gọi là đất của những Kẻ Ngu Xuẩn. Ít lâu sau, anh thấy một số người đang gặt lúa mì trong ruộng tan tác, tán loạn. Họ bảo anh: “Trong ruộng có một con quái vật”. Anh nhìn và phát hiện ra đó không phải là quái vật mà chỉ là một quả dưa hấu. Anh tự nguyện giết con “quái vật” ấy giùm họ. Anh cắt cuống dưa, rồi xắt thành từng miếng mỏng, và bắt đầu ăn. Dân bắt đầu sợ anh hơn cả trước đây họ sợ quả dưa hấu. Họ lấy đòn cản đuổi anh đi và nói: “Không đuổi hắn đi, hắn sẽ giết chúng ta mất”.
Rồi sau đó, một người khác cũng lạc vào vùng đất ấy, và anh này cũng gặp phải những chuyện y như anh trước. Nhưng, thay vì tình nguyện giết chết “quái vật”, anh này đồng ý với dân làng làm con quái vật ấy đúng là nguy hiểm thật, rồi cùng với dân làng, anh rón rén bỏ chạy, anh đã chinh phục được dân. Anh ở lại với dân ấy một thời gian dài cho tới khi, từng bước một, anh dạy họ những sự kiện căn bản, giúp họ không chỉ sợ dưa hấu, mà thậm chí còn gieo trồng dưa hấu nữa.[3]
Trong câu chuyện này, người thứ nhất đến với dân, anh có lòng tốt, có thiện chí, và đã làm mọi sự có thể để giúp họ, nhưng kết quả là anh càng làm thì dân càng sợ anh và xa lánh anh. Tại sao? Tại vì anh chưa đứng về phía dân, chưa lắng nghe họ và hiểu họ. Anh thất bại !
Trái lại, người thứ hai đến với dân, nhưng anh có một lối tiếp cận khác, anh đứng về phía họ, suy nghĩ và hành xử như họ. Dần dần anh chinh phục được họ và từ đó, anh biến đổi dân từ việc sợ “quái vật dưa hấu” đến việc biết cách trồng dưa hấu. Anh đã thành công !
Câu chuyện trên chứa đựng những bài học thật ý vị cho các mục tử khi thi hành sứ vụ. Trong giáo phận, có rất nhiều mục tử thành công, được giáo dân yêu mến và kính trọng, bởi vì các ngài đã sống như người thứ hai trong câu chuyện. Tuy nhiên, cũng không thiếu những mục tử thất bại hay gặp khó khăn và không được đón nhận bởi vì đã hành xử như người thứ nhất.
Trong bối cảnh xã hội hôm nay, các mục tử cần có một sự hoán cải về cung cách và phương thức phục vụ. Cuộc hoán cải này bao gồm sự thay đổi về lối sống, thái độ và cách thế hiện diện khi phục vụ.
Con người thời nay sống vô cảm, hời hợt và chuộng hình thức bên ngoài. Người mục tử là người sống đơn giản, bình dị, chân thành và thân thiện với mọi người.
Con người thời nay thích khẳng định mình bằng quyền lực, của cải vật chất, thích “gồng mình” để tỏ ra quan trọng, hơn người, nhưng lại hay đòi hỏi nhiều và thường hay bất mãn với cuộc sống. Người mục tử sống như là một người phục vụ bình thường, vui tươi, thánh thiện, biết đón nhận mọi hoàn cảnh với thái độ an nhiên tự tại và âm thầm phục vụ theo tinh thần men muối giữa đời.
Thay vì lấy trọng tâm mục vụ là công việc và thành quả hay vật chất, người mục tử biết lấy con người làm trọng tâm của mục vụ, từ đó hằng ngày xây dựng tốt các mối tương quan liên vị với mỗi người trong cộng đoàn cách thân thiện và thánh thiện. Để nhờ những nhịp cầu này, người mục tử đưa các linh hồn đến với Thiên Chúa.
Thay vì thích dùng quyền áp đặt và bắt người khác làm theo ý mình, người mục tử khiêm tốn, nhẹ nhàng đối thoại, biết tôn trọng ý kiến người khác, đa diện trong cách nhìn, mềm dẽo trong cách hành xử, biết thấu hiểu và cảm thương những hoàn cảnh và nỗi đau của từng người trong cộng đoàn được giao phó.
Noi gương Đức Kitô, Đấng không phân biệt đối xử, người mục tử biết mở rộng cửa đón tiếp mọi người mà không loại trừ ai, tận tụy phục vụ họ, đặc biệt là những người đau khổ, nhỏ bé, các trẻ em, những người gặp khó khăn, bị loại trừ và người nghèo. Mục tử phải mang tình yêu và lòng thương xót của Vị Mục Tử Nhân Lành đến cho mọi người.[4]
Khi phục vụ người khác, người mục tử biết đón nhận họ như họ là, không thành kiến và chấp nhận những ưu điểm cũng như cả những khuyết điểm của họ. Từ đó, khi có thể, với sự kiên nhẫn và khôn ngoan, vị mục tử dần dần tìm cách để chinh phục họ, hướng dẫn và giúp họ thay đổi theo những tiêu chuẩn và giá trị Tin Mừng. Có lẽ đây là bí quyết để thành công trong mục vụ.
Khi thi hành tác vụ, các mục tử có thể bị chính quyền, các nhóm lợi ích, đảng phái chính trị lôi kéo đứng về phía họ để giải quyết những vấn đề liên quan hay để tìm sự hậu thuẫn và lợi ích khác nhau. Các mục tử cần cẩn trọng, khôn ngoan và có lập trường rõ ràng để biết phân định từng vấn đề, phân biệt phạm vi và sứ vụ của mình, để khỏi bị lôi kéo vào một vị trí không thuộc sứ mạng của người mục tử. Với tư cách là người của Giáo Hội, các mục tử biết đứng về phía Dân Chúa để hướng dẫn và bảo vệ họ.
Ngoài ra, câu chuyện trên còn nói thêm điều này nữa. “Ta thường nghĩ rằng phục vụ có nghĩa là cho người khác một cái gì đó, dạy cho họ nói năng, hành động hoặc cư xử; nhưng nay phục vụ khiêm tốn, đích thực trước hết chính là giúp người khác khám phá ra rằng họ đang sở hữu những tài năng rất lớn nhưng thường ẩn khuất, đến độ họ có thể hơn cả những gì ta có thể làm cho họ”.[5]
4- Đón nhận đau khổ khi thi hành sứ vụ
Tình yêu và đau khổ luôn đi liền với nhau. Bởi vì yêu thương nên mới đau khổ. Chân lý đó được minh chứng qua cuộc đời và sứ mạng của Đức Kitô. Quả thế, khi thi hành sứ vụ, thập giá luôn gắn liền với sứ vụ cứu độ của Đấng Cứu Thế. Đức Giêsu cũng phải trải qua những kinh nghiệm thất bại, chống đối, bị sỉ nhục mà tột đỉnh của nó là cái chết đau đớn trên thập giá.
Cuộc đời không phải luôn là một thảm hoa màu rực rỡ mà không có những gai nhọn. Sẽ rất ảo tưởng nếu chỉ thấy đời mục tử toàn là những thành công mà không có thất bại, đau khổ và chống đối. Trong cuộc sống của người mục tử, có những nỗi đau vì không được cảm thông; có những hiểu lầm vì không được lắng nghe; có những thất bại xảy ra ngoài ý muốn.
Vì thế, người mục tử không chỉ biết đón nhận những thành công nhưng còn phải biết đón nhận những thất bại và đau khổ trong đời sống linh mục. Có thể nói đau khổ thường gắn liền với sứ vụ mục tử. Chính đau khổ làm cho vị mục tử nên giống Đức Kitô hơn. Khi đau khổ, chỉ có ai biết ngước nhìn lên thập giá mới khám phá ý nghĩa của đau khổ. Thập giá là sức mạnh để các mục tử không quỵ ngã trước thử thách. Thập giá mang lại hy vọng để kiên nhẫn đón nhận những biến cố đau thương của ngày Thứ Sáu và biết hy vọng đời chờ hoa quả cứu độ của ngày Chúa Nhật Phục Sinh.
Khi suy mầu nhiệm sự Thương, chúng ta ngắm: “Thứ ba thì ngắm Đức Chúa Giêsu chịu đội mão gai, ta hãy xin cho được chịu mọi sự sỉ nhục bằng lòng”. Như thế, chúng ta xin cho biết đón nhận những đau khổ, chịu sỉ nhục và cả thất bại trong đời sống của mình theo thánh ý Chúa.
Nếu chúng ta biết đón nhận đau khổ và thất bại trong mục vụ với thái độ đức tin, thì đó sẽ là cơ hội giúp chúng ta lớn lên về các nhân đức. Thánh Ignatiô Loyola tự rèn luyện mình bằng cách xin chịu đau khổ và sỉ nhục như là phương thế để tránh sự kiêu ngạo và vì danh Chúa được vinh hiển. Theo ngài, có ba bậc khiêm nhường: thứ nhất là xin Chúa dẫn ta tới sự nghèo khó tinh thần tột bậc, bậc thứ hai là xin Chúa dẫn ta đến sự ước ao chịu những nhục nhã và khinh bỉ đối lập với danh vọng thế gian, bởi vì do hai điều này mà có sự khiêm nhường; bậc thứ ba là sự khiêm nhường đối lập với kiêu ngạo; và từ ba bậc thang này dẫn ta tới mọi nhân đức.[6]
Tạm kết
Nếu để tìm một hình ảnh sống động của một mục tử trong Giáo Hội hiện nay đang thu hút và lôi cuốn mọi người, thì không ai khác hơn chính là Đức Giáo Hoàng Phanxicô.
Với cương vị là một vị Giáo Hoàng đứng đầu Giáo Hội, ngài có bao nhiêu bổn phận và bận rộn công việc hằng ngày, nhưng vị Giáo Hoàng đó mỗi lần xuất hiện với dân chúng, người ta gặp thấy một vị mục tử hồn nhiên, vui tươi, thân thiện và khiêm tốn. Đức Phanxicô toát lên một vẽ đẹp đáng quý và đáng yêu của một người mục tử chân chính, một mục tử có niềm vui thực sự của Chúa Kitô, một mục tử có đầy tràn Thần Khí. Vị Giáo Hoàng này không áp đặt ai, không loại trừ ai, nhưng với cung cách khiêm tốn, chân thành, và khôn ngoan, Ngài thu phục mọi người về với Chúa. Ngài quả là tấm gương phản chiếu dung mạo đích thực của vị Mục Tử nhân lành. Bởi vì Ngài đã sống những giá trị của Tin Mừng và thực thi sứ vụ mục tử theo một cung cách rất nhân bản và nhân văn.
Dịp tĩnh tâm linh mục giáo phận Vinh 31/12/2015
___________
[1] www.vatican2voice.org/91docs/opening_speech.htm. All papal quotes for this book are from the Vatican website.
[3] Shah Indries, The Way of the Sufi, New York: E. P. Dutton & Co., Inc. 1970 tr. 207 tt.
[4] Kim Chỉ Nam về Tác vụ và Đời sống Linh mục, Nxb. Tôn giáo 2013, tr. 89.
[5] Henri Neuwen et alii, Lòng thương xót, Nxb. Tôn giáo 2002, tr. 106-107.
[6] Ignatiô Loyola, Linh Thao, 146.
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương