Cử hành giữa “điều đã có” và “điều chưa đến”, các kitô hữu, chứng nhân của vĩnh cửu trong đô thị của loài người

Ngày nay, chúng ta đang chứng kiến một sự đột biến trong mối liên hệ giữa việc cử hành đức tin, tức là phụng vụ và đô thị của con người. Bài viết sẽ tập trung vào mối liên hệ giữa phụng vụ và sứ vụ, nhấn mạnh đến bản chất truyền giáo của phụng vụ, đồng thời xác định rằng Thánh Thể chính là nguồn mạch và đỉnh cao của hoạt động chứng tá. 

Dẫn nhập

Ý định của tôi là nhấn mạnh làm thế nào việc cử hành Kitô giáo tức phụng vụ, có thể chiếm vị trí giữa “điều đã có” và “điều chưa đến”: việc cử hành này được hình thành từ một biến cố được ghi dấu trong lịch sử, “điều đã có”, nhưng đồng thời cũng loan báo và thúc đẩy việc hoàn thành cánh chung. Chắc chắn rằng việc cử hành Kitô giáo giữa “điều đã có” và “điều chưa đến” đòi hỏi người Kitô hữu phải luôn trung thành với trần gian, đồng hành cùng với đời sống của con người và đồng thời phải sống trong sự đợi chờ việc hoàn thành ơn cứu độ.

Từ quan điểm này, tôi muốn nhấn mạnh ngay đến những khó khăn mà các Kitô hữu luôn gặp phải trong suốt lịch sử, để có thể trung thành với sự cân bằng mong manh này: các tín hữu đã và luôn bị cám dỗ để an cư trong “điều đã có”, “điều đã có” mà họ đã đạt tới và xây dựng nên, trong“điều đã có” mà họ đang sống, đến nỗi không còn trông chờ ơn cứu độ, chỉ có thể đến từ Thiên Chúa. Nhưng một khi chúng ta nghĩ rằng mình đã dứt khoát được cứu độ, khi chúng ta không còn khả năng phân biệt giữa Giáo hội trong thế giới và vương quyền Thiên Chúa đang đến, khi chúng ta không còn cảm thấy là “khách lạ và lữ hành” (1Pr 2,11), thì khi ấy, thế gian đã chiếm lấy chúng ta, thế tục đã làm chúng ta thỏa mãn và “điều đã có” được sánh như ngẫu thần… Mặt khác, đúng là đôi khi các Kitô hữu đã cố phủ nhận “điều đã có đó” nhằm chộp lấy “cái chưa đến”, một sự xa lánh tương lai do chối bỏ và coi thường ngày hôm nay của nhân loại. Họ khẳng định thế giới mai sau theo cách khiến họ lãng quên đô thị của con người. Tóm lại, họ đã nhượng bộ trước thái độ fuga mundi – trốn khỏi thế gian và fuga ecclesiae – trốn khỏi Giáo hội. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng thái độ thứ hai này được tỏ lộ cách mờ nhạt và chỉ thu hút một thành phần thiểu số trong Giáo hội.

Tuy nhiên, nếu như ngày nay có một thứ bệnh lý nào đó trong đời sống đức tin Kitô giáo, thì đó có thể chỉ là lãng quên “điều chưa đến”, là thiếu đi niềm chờ đợi eschata (những thực tại chung cuộc), là việc đặt ưu tiên cho những thực tại hữu hình và sống thời gian như một sự muôn đời liên lỷ aeternum continuum, thiếu đi một mục đích, và do vậy, cũng thiếu đi một kết thúc. Vì thế, có thể thấy rằng trong chính Giáo hội, ngày càng nhiều những tiếng than thở tiếc nuối những hoàn cảnh quá khứ, càng lúc càng nhiều hơn và mạnh mẽ hơn. Điều này cũng giống như những gì đã xảy ra trong cuộc hành trình về đất hứa: một số người (hoặc nhiều người) muốn quay trở lại Ai Cập, muốn đảo ngược hành trình Xuất hành, vì họ đã mệt mỏi với việc phải đi bộ, phải chờ đợi, phải tin cậy vào Thiên Chúa (x. Xh 16; Ds 11)… Nhưng nguyên nhân của bệnh lý này chẳng là gì khác hơn là thiếu đi chân trời cánh chung, không lưu tâm chờ đợi “điều chưa đến”, hay là không có đủ khả năng sống “niềm hy vọng hồng phúc”: ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang (Tt 2,13).

Từ nhiều thập niên qua, chúng ta ý thức rằng mình đang sống trong một xã hội thế tục hóa, nhưng chính sự thế tục hóa cũng là một hiện tượng năng động và luôn thay đổi. Chẳng hạn như vào đầu những năm 70, nó đồng nghĩa với khủng hoảng về tôn giáo, sự tự chủ của thế giới và văn hóa tách rời khỏi đức tin, còn ngày nay, khá nghịch lý, nó lại biểu hiệu như một sự tư nhân hóa tôn giáo, và đồng thời, là một quá trình thay đổi văn hóa, thúc đẩy sự gắn bó ngày càng chặt chẽ với của cải vật chất tại thế giới này: nhân loại ngày càng chú ý nhiều hơn đến những gì mình sở hữu, những gì có thể nhìn thấy, những gì xuất hiện bên ngoài, và vì thế tạo ra sự áp đặt. “Điều đã có” chiếm ưu thế rõ rệt, còn “điều chưa đến”, Vương quốc Thiên Chúa, cuộc sống vĩnh cửu, những thực tại sau cùng và vô hình, lại bị xem nhẹ. Dù đúng là có sự gia tăng nhu cầu về tâm linh, thì chúng ta cũng không nên quên rằng trong một xã hội tiêu thụ, thậm chí là commo-dification (coi thành hàng hoá), theo định nghĩa của một số nhà xã hội học Anh-Mỹ, tức là trong một xã hội mà ngay cả những liên hệ xã hội cũng biến thành hàng hóa, thành quan hệ trao đổi, thì những niềm tin và thực hành tôn giáo, kể cả phụng vụ, đều bị tách lìa khỏi bối cảnh ban đầu sống động và chân thực của chúng: chúng được thực hành trong một hệ thống mang dấu ấn cá nhân chủ nghĩa và sự thỏa mãn riêng tư, chủ quan, và như thế, kết thúc là bị bóp méo. Hiện nay, ai cũng có thể thấy: người ta tự nhận mình là Kitô hữu mà không tin vào sự phục sinh của Đức Giêsu, không thuộc về Giáo hội, không sống trong cộng đồng Kitô giáo, không cố gắng sống một đời sống luân lý phù hợp với Tin mừng, người ta tự nhận mình là Công giáo nhưng không phải là Kitô hữu.

Kitô hữu giữa “điều đã có” và “điều chưa đến”

Nếu đọc Tân Ước cách kĩ càng, – một tập hợp các sách đa dạng, được viết bởi nhiều tác giả khác nhau, chứng tỏ rằng lời Thiên Chúa hứa với tổ phụ Abraham đã được thực hiện cách hoàn hảo (x. St 12,2-3; Lc 1,55.73; Ga 8,56; Rm 4,16; Gl 3,14.29), – chúng ta sẽ nhận ra rằng, mặc dù được diễn tả qua nhiều ngôn ngữ và góc nhìn khác nhau, nhưng tất cả đều tuyên bố rằng Kitô hữu sống trong tình trạng giữa một biến cố đã xảy ra trong lịch sử và sự hoàn tất được mong đợi. Chúng ta có thể tóm tắt căn tính của Kitô hữu như sau: đó là một người tin vào mầu nhiệm nhập thể, tức là việc Lời Thiên Chúa trở thành người phàm nơi Đức Giêsu Nadarét, một con người thật sự trong lịch sử (x. Ga 1,14.18), nhờ đó đón nhận Người đến lần thứ nhất với lòng tin, và chờ đợi ơn cứu độ trọn vẹn trong Parousia, trong việc Người đến lần thứ hai. Có điều cần lưu ý: điều mà người Kitô hữu chờ đợi, không phải là ngày Chúa trở lại, nhưng là việc Người đến, một lần đến không phải là lập lại biến cố đã qua, nhưng là novum một điều hoàn toàn mới nằm trong tay Thiên Chúa. Việc Con Thiên Chúa đến trong xác phàm được kết thúc với việc Người đến trong vinh quang, đó cũng là nhãn quan cánh chung, chân trời của Parousia- cuộc Quang Lâm vốn đem lại trọn vẹn ý nghĩa cho việc Thiên Chúa làm người vừa là biến cố mặc khải về Thiên Chúa, vừa là biến cố cứu độ con người.

Có một sự thống nhất nội tại giữa nhập thể, “điều đã có” và cánh chung, “điều chưa đến”; sự thống nhất này thuộc trật tự Kitô học: Đức Kitô đã đến cũng chính là Đức Kitô sẽ đến. Chỉ có một mầu nhiệm duy nhất, đó là mầu nhiệm Christum totus – Đức Kitô toàn thể, một Đức Kitô đã sinh ra tại Bêlem, chịu đóng đinh và chết thời Phongxiô Philatô, đã sống lại và sẽ trở lại trong vinh quang để tái tạo, tức là quy tụ tất cả các thụ tạo trong vũ trụ về nơi Người (x. Ep 1,10). Sự duy nhất Kitô học này gắn liền với sự duy nhất và độc nhất nơi kế hoạch lịch sử cứu độ của Thiên Chúa; những lần can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử là thực hiện trong thời gian và không gian sự hiện diện để phán xét và cứu độ của Người, từ khởi đầu (arché) và tận cùng (telos). Chính vì lý do này mà “ngày của Chúa”, jom Adonaj được các ngôn sứ loan báo (chẳng hạn Am 5,18-20; Mlk 3) thì trong Tân Ước, trở thành ngày của Đức Kitô Giêsu (heméra Christou Iesou: Pl 1,6), tức ngày Người đến trong vinh quang luôn là tưởng nhớ sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử, đồng thời là bảo đảm  báo trước một sự can thiệp sau cùng và chung cuộc: ngày cánh chung, là kết cục – entéléchie của lịch sử con người, tức là biến cố trong đó toàn bộ lịch sử kết thúc và đạt ý nghĩa trọn vẹn.

Nhập thể là biến cố hạ mình của Thiên Chúa, là kenosis đã đưa Ngôi Lời đảm nhận trọn vẹn thân phận con người (x. Pl 2,7): sinh ra từ một người phụ nữ (x. Gl 4,4), sống như một con người, và chết trên thập giá (x. Pl 2,8). “Ngày hôm nay” của sự nhập thể, hodie của ngày lễ giáng sinh được gợi hứng trong Luca 2,11 loan báo ngày cánh chung và hướng về ngày ấy. Tuy nhiên, không phải lúc nào Giáo hội cũng sống trọn vẹn mầu nhiệm nhập thể và mầu nhiệm Giáng Sinh trong sự thật: trong việc tưởng nhớ, tôi – nhấn mạnh là tưởng nhớ–, việc Đức Giêsu sinh ra trong xác phàm, điều người ta thực sự sống là mong đợi ngày Người đến trong vinh quang, chứ không phải sự mong đợi hồi quy, giật lùi về việc giáng sinh đã xảy ra một lần và mãi mãi trong “điều đã có”. Chính ký ức này củng cố niềm mong đợi và hy vọng về ngày Quang Lâm – Parousia; vì chính việc trở thành người phàm của Thiên Chúa là mục đích hoàn thành – entéléchie của lịch sử nhân loại, nó không tách rời khỏi Parousia, của ngày Đức Kitô đến trong vinh quang. Người sẽ đến vì Người đã đến! Ngày ấy, những gì đã được hoàn thành nơi Đức Giêsu Nadarét, Đức Kitô, sẽ phải đạt đến sự thành toàn và viên mãn nơi từng con người và nơi toàn thể nhân loại, và tất cả thụ tạo, khi mà admirabile commercium – cuộc trao đổi kỳ diệu được cử hành trong thân xác của Đức Giêsu trở thành sự hỗ tương đầy đủ và trọn vẹn giữa Thiên Chúa và nhân loại. Vâng, nhập thể (ensárkosis) chỉ tìm được sự thành toàn đích thực và trọn vẹn trong việc quy phục chung cuộc (anakephalaiosis)!

Như vậy, người Kitô hữu, môn đệ của Đức Giêsu Kitô, được mời gọi sống giữa thế giới này, trong tình liên đới với những người khác và trung thành với công trình sáng tạo do đôi tay của Thiên Chúa thực hiện, Lời và Thần Khí. Đồng thời họ sống quyền công dân của Vương quốc (x Pl 3,10), trong khi nuôi dưỡng niềm hy vọng vào “những thực tại vô hình [và] vĩnh cửu” (2 Cr 4,18). Dù yêu mến nhân loại này và trái đất này, người Kitô hữu vẫn biết từ chối những gì thuộc về thế gian này: họ sống giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian (x. Ga 17,14-16), vì “ thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó” (1 Ga 2,17), vì “ bộ mặt thế gian này đang biến đi” (1Cr 7,31)… Từ mối liên hệ không thể tách rời giữa nhập thể và cánh chung nảy sinh sự khẳng định triệt để về thời gian và lịch sử, và vì thế, người tín hữu có trách nhiệm tổ chức mọi sự để vương quyền của Thiên Chúa hiển trị (x. Mt 6,10; Lc 11,2) và toàn thể tạo thành đón nhận ơn cứu chuộc (x Rm 8, 19-23).

Việc chờ đợi ngày Chúa đến (ho erchómenos: x. Mt 23,39; Mc 11, 9…; Lc 13,35; Ga,13; Hr 10,37; Kh 1,4.8; 4,8) định hình căn tính của người môn đệ Đức Kitô, người mà chính nhờ sự căng thẳng cánh chung này, đã chống lại mọi hình thức thờ ngẫu tượng, những điều có xu hướng gán cho hiện tại và công việc của con người, kể cả của người Kitô hữu, một sự tự mãn.

Chính “truyền thống Giáo hội” cũng không thể là sự lặp lại và bảo tồn các hình thức của quá khứ, vì nó sống bằng sự đổi mới liên tục và bằng động lực không ngừng được gợi hứng từ sức thu hút của Chúa Kitô, Đấng sẽ đến. Động lực này của lịch sử cứu độ dẫn dắt chúng ta đạt tới toàn bộ sự thật (x. Ga 16,13).

Người Kitô hữu tin vào một hiện tại nằm giữa “điều đã có” và “điều chưa đến”: họ hành động trong hiện tại của thế giới và lịch sử, được truyền cảm hứng bởi “điều đã có” nơi Chúa Kitô và bởi “điều chưa đến”, được đánh dấu bằng sự mong đợi rằng Thiên Chúa sẽ tiếp tục công trình Người đã khởi sự nơi chúng ta (x. Tv 138,8; Pl 1,6). Quyền công dân của chúng ta trên trời không miễn trừ chúng ta khỏi việc thuộc về xã hội – polis trần thế, nhưng lại mang đến cho chúng ta một định hướng, và như một lời hứa, nó đem lại ý nghĩa, thậm chí là ý nghĩa của ý nghĩa!

Cử hành phụng vụ giữa “điều đã có” và “điều chưa đến”

Nghịch lý Kitô giáo về “điều đã có” và “điều chưa đến” được sống và tỏ lộ đặc biệt qua cử hành phụng vụ, nhất là phụng vụ Thánh Thể. Tuy nhiên, dù đã hơn năm mươi năm trôi qua kể từ cuộc canh tân phụng vụ, như một phúc lành do Công đồng kêu cầu và tuôn đổ xuống trên Giáo hội trong những năm tiếp theo dưới sự hướng dẫn đầy khôn ngoan của Đức Phaolô VI, người ta vẫn chưa suy tư và sống Bí tích Thánh Thể cách đầy đủ trong tương quan với “điều chưa đến”, với Vương quốc sẽ đến.

Thật là khó để tái cân bằng sức nặng thế tục của một cái nhìn về Bí tích Thánh Thể chỉ dựa trên mối liên hệ của nó với quá khứ, hay đúng hơn với đồi Gôlgôtha, với biến cố thập giá. Thực vậy, ở Tây phương, các nền thần học Công giáo và Tin lành đều tập trung vào hy tế của Đức Kitô trên thập giá, và bỏ quên, – dù không bao giờ hoàn toàn –, chiều kích cánh chung của phụng vụ Thánh Thể.

Thế nhưng, chiều kích này không chỉ quan trọng với sự toàn vẹn của đức tin được tuyên xưng, không chỉ là một quan điểm chính thống cần được chấp nhận với xác tín, mà còn định hình và làm nên chính cách thức cử hành phụng vụ Thánh Thể cũng như đời sống của Giáo hội: Ars celebrandi, nghệ thuật cử hành của Kitô giáo không chỉ phụ thuộc vào các hoạt động đang được thực hiện mà còn vào mục đích được gán cho những lời nói và hành động ấy…

Chiều kích cánh chung của Bí tích Thánh Thể được Tân Ước khẳng định một cách rõ ràng: Bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu được các sách Tin Mừng Nhất Lãm (x. Mc 14,17-25) và thánh Phaolô (1 Cr 11,23-26) trình bày như một biến cố gắn kết không thể tách rời với vương quyền Thiên Chúa đang đến gần. Đức Giêsu nói rằng, bữa tiệc ly này là “một lễ Vượt Qua mà Người hằng khao khát”, một bữa ăn mà Người sẽ không dùng nữa “cho đến khi lễ này được trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa” (x. Lc 22,15-16). Cũng vậy, thánh Phaolô, khi suy niệm về lời của Chúa, đã nhấn mạnh rằng Bí tích Thánh Thể được cử hành “cho đến khi Chúa đến” (donec veniat: 1 Cr 11,26).

Bí tích Thánh Thể không chỉ là sự tưởng niệm (anamnèse) (x. Lc 22,19; 1 Cr 11,24-25), một sự nhớ lại cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, mà còn là chính cuộc quang lâm – Parousia – của Người, nghĩa là sự hiện diện viên mãn của Nước Thiên Chúa!

Đó là lý do tại sao Giáo hội sơ khai, với sự hiểu biết thiêng liêng, và trong sự vâng phục Chúa, đã muốn rằng lời kêu cầu Maranatha – Lạy Chúa, xin hãy đến, được liên kết với những lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu khi Người thiết lập Bí tích Thánh Thể. Điều này được minh chứng không chỉ qua sách Didaché – “sau khi đã dùng bữa, hãy dâng lời tạ ơn theo cách này. Xin ân sủng đến và thế giới này hãy qua đi. Maranatha” – mà còn qua một số dấu vết phụng vụ được trình bày trong phần kết luận thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô (1Cr 16,22), và trong sách Khải huyền (Kh 22,20).

Tất cả các Anaphore cổ đều tuyên xưng việc tưởng niệm, ký ức về “điều đã có” (khổ nạn, chết, phục sinh) cùng với niềm mong đợi “điều chưa đến”, tức là sự quang lâm vinh hiển của Chúa. Theo nghĩa này, thánh Xyrillô Alexandria đã khẳng định rằng Thánh Thể không chỉ là cử hành một hy lễ đáng sợ, mà còn là một cử hành tiên báo về cuộc sống vĩnh cửu, về Vương quốc đang đến. Trong Bí tích Thánh Thể, dĩ nhiên các biến cố quá khứ được tưởng nhớ – những biến cố mà Đức Giêsu đã trải qua trong lịch sử – nhưng đồng thời, tôi nhấn mạnh lại, đó cũng là sự mong đợi những điều chưa xảy ra, tức là cuộc quang lâm – parousia. Do đó, phụng vụ vượt lên trên tính phân mảnh và sự kế tiếp theo thời gian của quá khứ, hiện tại và tương lai, và qua đó, thực sự diễn ra sự hợp nhất giữa phụng vụ thiên quốc của các thiên thần và các thánh với phụng vụ của Giáo hội lữ hành trên trần gian.

Vào thời chúng ta, người ta nhấn mạnh rất nhiều đến việc cử hành Thánh Thể phải có một định hướng, và nhu cầu cấp thiết này phải được xem xét một cách nghiêm túc, nhưng với sự khôn ngoan: Conversi ad Deum – hướng về Thiên Chúa không chỉ có nghĩa là hướng lên cao (hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Cl 3,1), mà còn phải hướng về phía trước, sẵn sàng đi gặp ho erchómenos, Chúa đang đến (x. Mt 25,1.6). Đây không phải là một vấn đề về không gian địa lý, nhưng là một vấn đề hiện sinh xuất phát từ nhận thức thần học và tâm linh. Như vậy, Bí tích Thánh Thể không chỉ là một kinh nghiệm tôn giáo hay một phương tiện cứu rỗi mang tính cá nhân, nhưng là một cách sống, định hình nên những người nam và nữ Thánh Thể (x. Cl 3,15), những người biết sống trong trần gian theo mẫu gương của Đức Giêsu, một đời sống được thâu tóm trong Bí tích Thánh Thể như một cuộc sống trao tặng cho người khác, một cuộc sống tràn đầy tình yêu cho đến tận cùng (x. Ga 13,1), một cuộc sống phù hợp với thánh ý Chúa Cha.

Khi cử hành các bí tích trong thời gian, phụng vụ luôn là việc tưởng niệm những gì đã diễn ra trong lịch sử, những gì Đức Giêsu đã sống; đồng thời, phụng vụ cũng luôn là lời tiên báo về những gì đang diễn ra và sẽ trở thành thực tại viên mãn trong vương quốc của Thiên Chúa, trong Giêrusalem thiên quốc.

Phụng vụ Kitô giáo trong đô thị của con người

Ngày nay, chúng ta đang chứng kiến, có thể không hoàn toàn nhận thức được, một sự đột biến trong mối liên hệ giữa việc cử hành đức tin, tức là phụng vụ và đô thị của con người.

Giờ đây, chúng ta sẽ tập trung vào mối liên hệ giữa phụng vụ và sứ vụ, nhấn mạnh đến bản chất truyền giáo của phụng vụ, đồng thời xác định rằng Thánh Thể chính là nguồn mạch và đỉnh cao của hoạt động chứng tá – truyền giáo cũng như hoạt động phục vụ của Giáo hội. Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Bí tích Thánh Thể đồng thời xuất hiện như nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn bộ việc loan báo Tin mừng”, và Đức Bênêđictô XVI xác nhận điều đó khi nói rằng một “Giáo hội đích thực mang tính Thánh Thể là một Giáo hội truyền giáo.” Nếu điều này đúng, thì vẫn cần hiểu rõ làm thế nào mà việc cử hành Bí tích Thánh Thể lại là mầu nhiệm tuyệt hảo trong tất cả các mầu nhiệm được các Kitô hữu cử hành. Như thế, phụng vụ không phải là một cuộc trình diễn trong đô thị – polis, đúng hơn, phụng vụ cần được cử hành ngay giữa đô thị. Đó không phải là một hành động mà các Kitô hữu áp đặt lên con người, nhưng chính các Kitô hữu được Thánh Thể uốn nắn, và qua đời sống của họ giữa lòng nhân loại, họ thuật lại ký ức về Đức Giêsu. Phụng vụ là một mầu nhiệm cao cả và nó đã được cử hành trong “căn phòng ở lầu trên” (Cv 1,13; 20,7-8), nơi các môn đệ tụ họp epì tò autò (Cv 2,44; 1 Cr 11,20), nghĩa là cùng một nơi và cùng một hoạt động. Đây không phải là phụng vụ hướng đến những người không phải là Kitô hữu, đến thế giới, nhưng chỉ dành riêng cho các tín hữu, mà ngay cả các dự tòng cũng không được phép tham dự…

Vào thời thịnh hành của Kitô giới, khi mà xã hội được xem như là Kitô giáo, người ta trưng bày Thánh Thể trong mặt nhật tại quảng trường thành phố, với ý định là tỏ cho đô thị trần thế biết Thánh Thể như là dấu chỉ của Thành thánh từ trời xuống, Thành của Con Chiên (x. Kh 21,10). Nhưng ngày nay, trong bối cảnh một xã hội tục hóa, khi mà ngay cả tôn giáo và việc thờ phượng cũng có nguy cơ bị giảm xuống thành những “mặt hàng tiêu dùng”, thì các Kitô hữu phải quan tâm hơn bao giờ hết đến việc gìn giữ sự chính thống của việc cử hành phụng vụ, và bảo đảm rằng nó không bị biến dạng và mất đi ý nghĩa vô giá của mình. Tôi không yêu cầu việc cử hành phụng vụ phải được giản lược thành những chỉ dẫn dành cho người ngoài Kitô giáo có thể hiểu được, không, tôi chỉ mong muốn rằng chúng ta phải tỉnh thức về sứ điệp được truyền tải qua phụng vụ, nhất là khi chúng ta cử hành, như thường thấy ngày nay, trong sự hiện diện của những người không tin.

Vào lúc khởi đầu triều giáo hoàng của mình, một điều quan trọng, Đức Bênêđictô XVI đã muốn rằng, trước khi rước lễ, cần có lời nhắc nhở: chỉ có các tín hữu, các môn đệ của Chúa, những người ý thức về mầu nhiệm được cử hành và đang sống trong koinonía với Giáo hội Công giáo, mới được rước lễ.

Đồng thời, điều cốt yếu là phải nhớ rằng qua việc thờ phượng công cộng, chúng ta bày tỏ cách chúng ta quan niệm về cộng đoàn Giáo hội, thuật lại Đức Kitô cũng như Tin mừng mà Người đã sống và rao giảng, và chúng ta loan báo Vương quốc đang đến. Đúng thế, rất cần phải tự hỏi: chúng ta nói gì với con người qua phụng vụ của chúng ta, càng lúc càng mang tính công cộng? Phụng vụ ấy truyền trao điều gì về chân lý Thánh Thể, về một cuộc đời được trao tặng, cho đi, một sự phục vụ mà Đức Kitô đã thực hiện cho anh em mình và được thể hiện đặc biệt qua việc rửa chân (x. Ga 13,1-15)? Tôi xin được bày tỏ nỗi buồn khi thấy nhiều cử hành chỉ phản ánh một thứ “tôn giáo dân sự” khi cử hành không phải mầu nhiệm Đức Kitô mà là những sự kiện nhân sinh và xã hội. Hàng triệu người không phải Kitô hữu “nhìn thấy” hay tham dự phụng vụ của chúng ta, vậy những phụng vụ ấy đang nói gì với xã hội loài người – polis?

Thật vây, phụng vụ dẫn chúng ta ra khỏi thế gian, đưa chúng ta đến “căn phòng ở lầu trên”, vào bên trong một đức tin tôn kính, không có mục đích nào khác ngoài việc làm đẹp lòng Thiên Chúa, và vì thế tách biệt khỏi xã hội loài người – polis. Nhưng hãy cẩn thận, điều đó không có nghĩa phụng vụ không phải là một sự hình thành cộng đoàn Kitô hữu và một hành động định hình Giáo hội – forma ecclesiae! Thông qua ngôn ngữ, các dấu chỉ, và nhất là ars celebrandi – nghệ thuật cử hành, phụng vụ phải là một biến cố có khả năng cung cấp cho con người một hình ảnh không đối nghịch lại mầu nhiệm nhập thể và sứ điệp Tin mừng. Phụng vụ của chúng ta phải bày tỏ Bí tích Thánh Thể như một việc phục vụ, như một hành động rửa chân do Chúa thực hiện, và như một mệnh lệnh dành cho các Kitô hữu, – một giới răn mới: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34;15,12).

Giữa lòng thế giới

Một người bạn của tôi, giáo chủ giáo hội chính thống Nga, vào thời Xô Viết, đã bị kết án hai mươi năm khổ sai; khi được hỏi là vào những lúc bi thương như thế, làm thế nào Giáo hội có thể kháng cự lại, ông trả lời: Chúng tôi tiếp tục cử hành phụng vụ, và chính nhờ đó mà chúng tôi tìm được sức mạnh để có thể sống trọn vẹn cả ơn tử đạoVì Thánh Thể là hiến dâng sự sống cho người khác; và người khác, những người không phải là Kitô hữu, những người cùng chia sẻ tù ngục và tra tấn với chúng tôi, đã thấy nơi chúng tôi những con người có khả năng hy vọng, ngay cả khi cận kề cái chết. Phụng vụ của chúng tôi khi ấy, hơn lúc nào hết, đang diễn ra giữa lòng thành phố của con người, chứ không bị giam cầm trong trại lao động khổ sai (Goulag) của chúng tôi.”

Đúng, đô thị, la polis cần những người nam người nữ đích thực sống Thánh Thể, và không cần gì thêm nữa.

Nguyên tác: Célébrer entre le “déjà là” et le “pas encore”, Les Chrétiens témoins de l”éternel dans la cité des hommes.

(Enzo Bianchi)

trong L’Évangile célébré (193-203)

Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật OP chuyển ngữ

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 146 (Tháng 3 & 4 năm 2025)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*