Sự nối kết giữa hành hương,hy vọng và thánh lễ qua góc nhìn của thần học phụng vụ

Thánh lễ không chỉ hướng về hiện tại mà còn hướng đến tương lai khi Đức Kitô sẽ đến trong vinh quang. Thánh lễ là “bữa tiệc của Chiên Con”, báo trước sự hoàn tất của Nước Thiên Chúa. Đây là đích đến cho cuộc hành hương của chúng ta mà cũng là đích điểm của đức cậy trông (Tông Huấn Bí Tích Tỉnh Yêu “Sacramentum Caritatis” [SC], số 31).

Dẫn nhập

Năm Thánh 2025 bắt đầu vào đêm Giáng Sinh năm 2024 và kết thúc vào ngày 6 tháng 1 năm 2026. Đây là một thời gian ân sủng, một trải nghiệm đặc biệt về hy vọng cho toàn thể Hội Thánh. Các hoạt động sẽ rất nhiều trong Năm Thánh… trong đó có các cuộc rước và hành hương. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta hãy trở thành người hành hương của hy vọng và thể hiện các dấu chỉ của niềm hy vọng trong cuộc sống (x. Sắc Chỉ Công Bố Năm Thánh 2025: Đức Trông Cậy Không Làm Thất Vọng “Spes non confundit” [SNC], các số 1, 5, 7).1 Đây là phần trình bày thứ nhất khi bàn về mối liên hệ giữa hành hương và niềm hy vọng.

Chính trong dịp hành hương, một hoạt động đỉnh cao và không bao giờ thiếu là cử hành Hy lễ Tạ ơn (Hiến Chế Về Phụng Vụ Thánh [PV], số 10; Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo [GLCG], số 1324). Qua Thánh lễ, cộng đoàn tín hữu cảm nhận được sự đồng hành của Chúa cho cuộc lữ hành đức tin của mình. Nơi Thánh lễ, chúng ta lãnh nhận Lời Chúa và Thánh Thể trong bữa tiệc của giao ước mới, biểu hiện sự hiệp thông với Chúa và với nhau trong thân mình mầu nhiệm Đức Kitô. Lời Chúa và Thánh Thể là lương thực chính yếu cho cuộc hành hương của chúng ta. Đây là tóm lươc phần trình bày thứ hai khi kết nối giữa Thánh lễ và hành hương.

Phần thứ ba của bài viết này diễn tả sự gắn kết giữa Thánh lễ và niềm hy vọng Kitô giáo. Chúng ta sẽ nhận ra Thánh lễ khơi dậy nơi chúng ta niềm hy vọng vào một tương lai tốt đẹp và vào đời sống vĩnh hằng bên Chúa trên quê trời. Qua Thánh lễ, cộng đoàn Kitô hữu cử hành mầu nhiệm cứu độ của Đức Giêsu Kitô: sự chết và phục sinh của Ngài mở ra con đường dẫn tới sự sống đời đời (1Cr 15,23). Bữa tiệc Thánh Thể này là hình ảnh của bàn tiệc cánh chung, nơi toàn thể nhân loại sẽ được quy tụ trong vương quốc của Thiên Chúa. Thánh lễ không chỉ hướng về hiện tại mà còn hướng đến tương lai khi Đức Kitô sẽ đến trong vinh quang. Thánh lễ là “bữa tiệc của Chiên Con”, báo trước sự hoàn tất của Nước Thiên Chúa. Đây là đích đến cho cuộc hành hương của chúng ta mà cũng là đích điểm của đức cậy trông (Tông Huấn Bí Tích Tỉnh Yêu “Sacramentum Caritatis” [SC], số 31).

I. Hành hương và niềm hy vọng

Như cuộc hành hương về Nước Trời (GLCG 2691), nếu hành trình cuộc đời con người không ngừng phải đối diện với những gian nan và thử thách, nhiều người thì chán nản, hoài nghi và bi quan về tương lai, thì niềm hy vọng trở thành một yếu tố quan trọng trợ giúp chúng ta tiếp tục tiến bước, tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống, vững tin vào tương lai, thích ứng và vượt qua nghịch cảnh (Rm 12,12). Bởi vì hy vọng có nghĩa là ước mong, trông ngóng, chờ đợi, tìm kiếm và theo đuổi một điều quý hiếm, tốt lành, cần thiết, chính đáng, hệ trọng, chưa có được và khó đạt được nhưng tin tưởng chắc chắn sẽ thành hiện thực trong tương lai, là niềm tin vào điều tốt đẹp Thiên Chúa sẽ ban tặng, là khát khao và chờ đợi những hồng ân Thiên Chúa ban cho đời này và đời sau, dù không biết ngày mai sẽ ra sao (Rm 8,24-25; SNC 1).2 ĐGH Phanxicô mong ước Năm Thánh là cơ hội cho mỗi người nhen nhóm lại niềm hy vọng vốn thuộc về một trong những mục đích của hành hương. Đúng vậy, hành hương là hành trình của niềm hy vọng, đến với niềm hy vọng, cung cấp niềm hy vọng, và tất cả chúng ta sẽ là những “người hành hương của niềm hy vọng” (Ibid.).

Là “người hành hương của niềm hy vọng” (1) khi chúng ta biết đặt niềm hy vọng vào Chúa là nguồn an ủi và sức mạnh (Tv 23,1; x. Tv 42,12), là Đấng toàn năng, là Cha giàu lòng yêu thương con cái, và là Đấng trung tín với lời hứa của Ngài (Hr 10,23); (2) khi chúng ta tin rằng thử thách và đau khổ mang ý nghĩa tốt lành trong kế hoạch của Thiên Chúa (Gr 29,11), rằng tất cả chỉ là tạm thời chứ không phải là điểm kết thúc (1Pr 5,10); (3) khi chúng ta xác tín rằng không có gì và không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa (Rm 8,35.37-39); (4) khi chúng ta mong ước quê hương vĩnh cửu trên trời (Hr 11,16); và (5) khi chúng ta hành động để công bố và mang đến cho người khác sứ điệp của niềm hy vọng (Lc 1,39; Mt 4,16; 1 Pr 3,15), không ngừng phấn đấu để đạt được những điều tốt đẹp hơn trong Thiên Chúa (x. Spe Salvi, các số 32-33, 35; SC92).

II. Thánh lễ trong hành hương

Cả cuộc hành hương lẫn Thánh lễ đều nhấn mạnh mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa, một hành trình từ xa cách đến gần gũi Thiên Chúa hơn, từ trần thế mau qua đến thiên đàng vĩnh cửu (x. Xh 13,17-22; Tv 84,6; Hr 11,13-16). Khi nói Thánh lễ trong hành hương, chúng ta nhận ra 2 khía cạnh ở đây:

Thứ nhất, bao giờ cũng có Thánh lễ trong một cuộc hành hương vì hành hương không chỉ đơn thuần là một cuộc di chuyển về thể lý đến một địa điểm linh thiêng, mà còn là một hành trình thiêng liêng hướng về Thiên Chúa (x. SNC 5). Bởi vậy, hành hương liên kết chặt chẽ với đền thánh đến độ có thể nói hành hương cần có đền thánh, và đền thánh cần có hành hương (Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân và phụng vụ [ĐĐBD], các số 279-281). Tất nhiên một trong những thực hành liên kết hành hương với đền thánh chính là Thánh lễ và hành hương Kitô giáo luôn kết thúc bằng Thánh lễ, bởi vì qua Thánh lễ, Chúa Kitô đưa chúng ta vào trong vận hành đi lên cùng Thiên Chúa (Balthasar).3 Thánh lễ xuất phát từ nhà thờ giáo xứ và Thánh lễ tại nơi thánh/địa điểm hành hương như cao điểm của cuộc hành hương và là trọng tâm của mọi cử hành phụng vụ (x. Lc 22,19-20). Tất cả nhằm làm nổi bật ý nghĩa thiêng liêng của cuộc hành hương, biến hành hương thành một cơ hội để người tín hữu củng cố đức tin, hoán cải tâm hồn, và gia tăng tình mến Thiên Chúa cùng lòng bác ái với tha nhân khi trở về nhà (ĐĐBD 287).

Thứ hai, hy vọng làm cho con người ý thức rằng mình luôn sống trong trạng thái hành hương. Nếu đời người là môt cuộc hành hương mà đích đến không ở trần thế, mà là dẫn đến thiên đàng và hạnh phúc đích thực (x. Hr 11, 13-16; 1 Pr 2, 11-12; GLCG 2691), là hướng về Thiên Chúa, nguồn cội và cùng đích tối hậu của đời sống, thì Thánh lễ chính là những trạm dừng cho toàn bộ cuộc hành hương đó. Lý do là vì phụng vụ là kinh nghiệm về niềm hy vọng được gắn chặt vào Mầu nhiệm Vượt qua, và khi rời khỏi những bận tâm trần thế để tham dự vào cử hành Mầu nhiệm này của Chúa Kitô, xét như nguồn mạch của an ủi và hy vọng, thì còn hơn cả một nơi thánh nào khác, người tín hữu được ánh sáng Mầu nhiệm Vượt qua soi chiếu, sẽ bước vào mầu nhiệm Thiên Chúa, nơi chúng ta gặp gỡ Đức Kitô là niềm hy vọng đích thực duy nhất, vượt trên mọi hy vọng của con người. Sau khi đã được bồi dưỡng và tăng sức nhờ Lời Chúa và Thánh Thể, chúng ta được sai đi để tiếp tục cuộc hành hương trần thế, bước tiếp hành trình mới tiến gần hơn đến mục tiêu cuối cùng là Giêrusalem thiên quốc, là quê hương vĩnh cửu, nơi Thiên Chúa là cùng đích của mọi khát khao và hy vọng (x. Pl 3,12).4

III. Hành hương trong thánh lễ

Trong Kinh Thánh, hình ảnh dân Israel hành hương về Đất Hứa và hành trình của Đức Kitô từ nhập thể đến phục sinh tạo nền tảng thần học sâu sắc cho ý niệm hành hương. Khi người tín hữu lên đường hành hương, họ mang trong lòng niềm hy vọng được gặp Chúa, nhận ơn tha thứ và được đổi mới. Thánh lễ tái hiện hành trình cứu độ của Đức Kitô, đồng thời mời gọi tín hữu tham dự cách sống động vào hành trình này. Từ việc lắng nghe Lời Chúa đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, Thánh lễ trở thành đỉnh cao của cuộc hành hương thiêng liêng, dẫn dắt chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa và hướng chúng ta về sự sống đời đời. Qua lăng kính thần học phụng vụ, chúng ta nhận ra rằng Thánh lễ không chỉ làm sống động hành trình cứu độ mà còn mời gọi chúng ta bước đi vững vàng trong đức tin, hân hoan trong đức cậy và nhiệt thành trong đức mến, để lan tỏa tình yêu Thiên Chúa và niềm hy vọng cho thế giới. Nhờ đó chúng ta trở thành những lữ khách đích thực, tiến bước trên hành trình về quê hương vĩnh cửu (Hr 11,13-16).5

1. Hành trình đi về bên Chúa

Khi phong trào đi hành hương của thời Trung cổ suy tàn vào thời Cận đại, bấy giờ “hành trình hướng tới một xứ xa xôi” trở nên một “cuộc hành hương thiêng liêng”, một “lộ trình nội tâm” hay một “cuộc rước tượng trưng” mà tuyến đường thường ngắn gọn hơn…(ĐĐBD 285).

Với ý tưởng trên, khi liên kết hành hương với Thánh lễ, chúng ta có thể hiểu rằng Thánh lễ là một cuộc hành hương nội tâm, nơi tín hữu di chuyển từ tình trạng tội lỗi và giới hạn của mình để đến gần Thiên Chúa hơn. Các phần và tác động phụng vụ trong Thánh lễ phản ánh ý nghĩa của cuộc hành hương này:

• Ở nghi thức đầu lễ, hành động thống hối (x. QCSL 51) mời gọi chúng ta khởi đầu hành trình thiêng liêng với tâm hồn thanh sạch, đồng thời dâng lời cảm tạ Thiên Chúa – Đấng nhân hậu, yêu thương, và là nguồn mạch của mọi hòa giải cùng chữa lành.6 Nếu hành hương mở ra cơ hội lãnh nhận ân xá, giúp chúng ta khám phá lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, thì chính trong nghi thức này, chúng ta cảm nhận được chiều sâu của sự tha thứ trọn vẹn. Thuật ngữ “lòng thương xót” và “ân xá” từng được xem như có thể thay thế cho nhau, và ngay tại đây, chúng ta như bước vào cuộc hành hương nội tâm, đón nhận sự tha thứ vô hạn của Thiên Chúa (SNC 23).

• Các cuộc rước trong Thánh lễ, theo một cách nào đó, được cảm nhận như một cuộc hành hương thực sự, phản ánh hành trình thiêng liêng của con người hướng về Thiên Chúa và sự sống đời đời. Đã có thời kỳ, sự khác biệt giữa rước kiệu và hành hương không phải lúc nào cũng rõ ràng,7 bởi cả hai đều thể hiện rằng chúng ta là những lữ khách trên hành trình trần gian, không có nơi ở vĩnh viễn và cố định trong thế giới này.8 Việc xếp hàng đi rước không chỉ đơn thuần là một hoạt động mang tính con người, không chỉ là yếu tố lễ hội hay lời nguyện qua hành động, mà còn là sự công bố đức tin và biểu tượng cho hành trình của con người hướng về Thiên Chúa (x. Tv 114; Nkm 12,31-42). Quan trọng hơn, đoàn rước làm nổi bật căn tính của chúng ta là “Dân Chúa đang tiến vào Nhà Chúa,” là những người hành hương đang tiến về vương quốc vĩnh cửu của Ngài.9

• Bản chất cộng đồng của Thánh lễ phản ánh Hội Thánh như một đoàn dân lữ hành, cùng nhau tiến về vương quốc của Chúa. Cụ thể, hành động di chuyển của đoàn rước nhập lễ, khởi đi từ bên ngoài/cuối thánh đường và tiến đến cung thánh – vừa biểu trưng cho thiên đàng, vừa là nơi các mầu nhiệm thánh được cử hành – là một dấu chỉ sống động diễn tả toàn thể Dân Chúa, tức Hội Thánh lữ hành, đang trên hành trình từ trần gian tiến vào tiền đình Nhà Chúa, hướng đến thành thánh Giêrusalem trên trời và gặp gỡ Mặt Trời Công Chính là Đức Kitô phục sinh.10 Tương tự, đoàn người lên rước lễ cũng tạo nên một cuộc rước mang ý nghĩa hành hương khi tiến bước đến bàn tiệc thiên sai để gặp gỡ và đón nhận Chúa phục sinh như niềm hy vọng hồng phúc, cũng là hướng đến sự tha thứ, hợp nhất, bình an lớn lao hơn và khao khát sự sống đời đời. Họ vừa đi vừa hát, niềm vui lan tỏa cho đến khi toàn thể cộng đoàn hoàn tất việc rước lễ, thể hiện sự khao khát hiệp thông sâu xa và đời đời với Chiên Thiên Chúa và với nhau (x. LG 1, GLCG 1045; QCSL 86-87).11 Đây chính là chiều kích hiệp thông của hành hương (ĐĐBD 286).

• Với lời giải tán “Lễ xong chúc anh chị em đi bình an”, chúng ta được sai đi để sống phần “phụng vụ hàng xóm” (Chauvet),12 chẳng hạn đến thăm những anh chị em đang gặp khó khăn hoặc túng thiếu (người bệnh, người già cô đơn, người khuyết tật…). Điều này cũng được coi là đang thực hiện một cuộc hành hương đến với Chúa Kitô hiện diện trong họ (Mt 25,34-36).

2. Có Chúa luôn đồng hành

Thánh lễ là sự tưởng niệm Mầu nhiệm Vượt qua. Tưởng niệm này nhắc nhở rằng Thiên Chúa đã can thiệp dứt khoát vào lịch sử để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Hơn thế nữa, Đức Kitô còn chia sẻ Thần Khí của Ngài, như “bảo chứng phần gia nghiệp cho chúng ta…” (x. Ep 1,14). Đây là lời bảo đảm chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn yêu thương và không bao giờ bỏ rơi con người, miễn là chúng ta trung thành với lời hứa của Ngài. Theo Đức giáo hoàng Biển Đức XVI: “Hy vọng cao cả, thật sự vững vàng của con người ngay cả trong mọi nỗi tuyệt vọng chỉ có thể là Thiên Chúa – một vị Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và tiếp tục yêu thương chúng ta “đến cùng”, đến khi mọi sự “đã hoàn tất” (x. Ga 13,1 và 19,30; Spe Salvi, số 27).

Trong Nghi thức Khai mạc Năm Thánh tại các Hội Thánh địa phương, đoàn hành hương long trọng tiến vào Nhà thờ Chính tòa, đi sau Thánh giá Chúa Kitô – biểu tượng của ơn cứu độ và là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta.13 Cho đến nay, trong mọi cuộc rước long trọng, thánh giá với tượng Chúa chịu nạn luôn đi đầu, thể hiện hình ảnh Hội Thánh lữ hành đang bước theo Chúa Kitô, hành trình cùng Ngài qua thập giá đến vinh quang khải hoàn và Hội Thánh luôn hy vọng vào thập giá Đức Kitô (Cv 17,16-34; 1Cr 1,17-2,16).

Cuộc rước nhập lễ, tựa như một cuộc hành hương, diễn ra với thánh giá đi đầu và bàn thờ làm đích đến, mang ý nghĩa sâu sắc: Đức Kitô không chỉ là mục tiêu tối hậu (biểu trưng qua bàn thờ) mà còn là Đấng đồng hành với chúng ta. Qua hình ảnh vị tư tế, Chúa Kitô hiện diện để bảo vệ, hướng dẫn, và dẫn dắt đoàn dân của mình. Từ giây phút này, chúng ta không còn phải bước đi một mình giữa dòng đời, bởi đã có Đức Giêsu luôn đồng hành như đã ở bên hai môn đệ trên đường Emmau chia sẻ những nỗi niềm ưu tư và hy vọng của họ (x. Lc 24,1335). Trong Thánh lễ, cộng đoàn gặp gỡ Đức Giêsu Kitô cách sống động qua Lời Chúa, và theo một cách thức mới mẻ – qua việc bẻ bánh (x. Lc 24).

Đặc biệt, chúng ta cũng có thể cảm nhận được sự đồng hành của Chúa trong cuộc hành hương qua 4 lần trong Thánh lễ chủ tế chào chúc cộng đoàn “Chúa ở cùng anh chị em”:

• Trong nghi thức đầu lễ, lời chào “Chúa ở cùng anh chị em” và “Và ở cùng cha” – không chỉ mời gọi cộng đoàn tham dự cách sốt sắng vào mầu nhiệm thánh, mà còn loan báo sự hiện diện sống động của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần giữa chúng ta. Lời chào này còn biểu dương mầu nhiệm Hội Thánh đang được quy tụ để tôn vinh Thiên Chúa, tiền dự vào bàn tiệc cánh chung (x. QCSL 50), và nhấn mạnh ý nghĩa sâu xa của Thánh lễ như cuộc gặp gỡ với Đức Kitô phục sinh.14

• Lời chào khi công bố Phúc Âm “Chúa ở cùng anh chị em” nhằm chuẩn bị tâm hồn người nghe bước vào khoảnh khắc mới của cuộc gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh qua Lời của Người (x. QCSL 59, 134, 175; Nghi Thức Thánh Lễ [NTTL], số 15; Sách Lễ Nghi Giám

Mục [LNGM], số 141; Mục Lục Các Bài Đọc Trong Thánh Lễ [BĐ], số 65). Lời đáp “Và ở cùng cha” của cộng đoàn thể hiện sự chia sẻ đức tin và niềm tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa Kitô trong Lời sắp được công bố.15

• Bắt đầu Kinh Tiền Tụng, lời chào “Chúa ở cùng anh chị em” nhằm loan báo Chúa Kitô sắp hiện diện dưới một hình thức mới là hiện diện trong bí tích Thánh Thể dưới hình bánh rượu. Lời chào này nhấn mạnh rằng cả chủ tế lẫn cộng đoàn đều cần đến sự đồng hành của Chúa để bước vào Kinh Nguyện Thánh Thể – phần quan trọng nhất của Thánh lễ (x. Ga 15,5).16

• Trong nghi thức kết lễ, lời “Chúa ở cùng anh chị em” cùng với phép lành cuối lễ chuyển tải tác động của mầu nhiệm vừa được cử hành vào cuộc sống của các tín hữu, chúng ta được chúc lành với những ơn trọng đại và dồi dào nhất để tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu. Đồng thời bảo đảm với chúng ta rằng rằng Chúa Kitô luôn đồng hành và trợ giúp chúng ta trong hành trình sống Tin Mừng hướng tới sự hoàn tất cánh chung với sự hiện diện vĩnh hằng của Chúa.17

3. Lương thực cho cuộc hành hương

Trong số những lương thực giúp cho người tín hữu sống trọn vẹn hành trình thiêng liêng thì trên hết vẫn là Hy lễ Tạ ơn bởi vì Thánh lễ là một minh chứng rằng Chúa luôn hiện diện, yêu thương và đồng hành với mỗi chúng ta (x. PV 7). Trong Hy lễ Tạ ơn, Chúa Kitô hiện diện như là của ăn của uống cho niềm hy vọng của chúng ta.18

a. Lời Chúa

Phần Phụng vụ Lời Chúa trong Thánh lễ tái hiện lịch sử cứu độ, giúp tín hữu nhận ra sự dẫn dắt của Thiên Chúa trong lịch sử và trong đời sống cá nhân. Bao giờ cũng vậy, trong diễn tiến của cuộc hành hương, Lời Chúa được dùng để soi sáng, hướng dẫn, nuôi dưỡng và nâng đỡ khách hành hương (ĐĐBD 287). Wainwright chỉ ra rằng Lời Chúa nhắc nhớ Hội Thánh về điều “vẫn còn cần thiết”, nghĩa là Lời Chúa vẫn cần thiết để công bố vương quốc của Chúa cho đến khi vương quốc ấy trị đến trong tất cả sự viên mãn của nó.19 Vì thế, Sắc Chỉ Spes non confundit nói với chúng ta rằng trên hành trình tiến về Năm Thánh, chúng ta được mời gọi trở về với Kinh Thánh và lắng nghe Lời Chúa dành cho mình.” (số 25)

Qua phần Phụng vụ Lời Chúa, đặc biệt là qua bài Tin Mừng, chúng ta cảm nhận Chúa đang nói trực tiếp với từng người. Lời Chúa là nền tảng của đức tin, là lương thực của đức cậy, là “lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Thật vậy, Lời Chúa là ánh sáng và sức mạnh giúp chúng ta định hướng đời sống mình trong hành trình đức tin, sáng soi và dẫn dắt Dân Chúa vượt qua bóng tối của tội lỗi và thử thách để tiến về nguồn sáng vĩnh cửu. Lời Chúa là lời loan báo mang lại hy vọng, khơi dậy niềm hy vọng (SNC 1) bằng cách: một là nhắc lại cho chúng ta rằng dù hành trình có thế nào, Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, dẫn dắt (Hr 13,8), luôn trung thành với lời hứa của Ngài trong suốt lịch sử cứu độ vì Thiên Chúa của “lời hứa” chính là vị “Thiên Chúa của hy vọng” (Rm 13,15); (2) hai là giúp chúng ta xác tín rằng hiệu quả của Lời Chúa sẽ hiện thực dần dà trong thế giới này theo từng phần và sẽ hoàn tất trọn vẹn chỉ trong vương quốc của Chúa. Việc lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa sẽ giúp mỗi người chúng ta cảm nghiệm sâu sắc hơn tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa (Rm 10, 17; PV 7, 33, 56; QCSL 29, 55, 65).20 Theo Schillebeckx, biểu lộ lòng thương xót chính là mục tiêu sâu xa nhất mà Thiên Chúa muồn hoàn thành trong lịch sử.21

b. Thánh Thể

Chính qua những cử hành phụng vụ, và đặc biệt là những nghi thức bí tích đúng nghĩa mà Hội thánh sinh ra con cái mình, nuôi dưỡng và củng cố các tín hữu trong suốt thời gian lữ hành dương thế trong đó Thánh Thể chính là lương thực thiêng liêng quan trọng nhất giúp tín hữu vững mạnh trong hành trình đức tin. Thánh Thể được ban và được mô tả là “viaticum” như lương thực nuôi dưỡng niềm hy vọng cho đoàn dân lữ hành trên đường về quê trời, nơi chính Chúa chuẩn bị cho chúng ta (Ga 14,2).22

Trong bối cảnh hành hương, Thánh lễ là dấu chỉ và bảo đảm sự đồng hành của Thiên Chúa trên mọi nẻo đường. Như hành trình của dân Israel trong sa mạc được Thiên Chúa nuôi dưỡng bằng manna từ trời, thì Thánh Thể chính là lương thực nuôi dưỡng Dân Chúa trong hành trình đức tin. Qua phần Phụng Vụ Thánh Thể, Chúa Giêsu thực sự hiện diện và ban chính Thịt Máu Ngài cho chúng ta. Sự hiện diện của Ngài là bảo chứng về việc Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong mọi hoàn cảnh; và Thánh Thể là nguồn sức mạnh nuôi dưỡng đức tin và củng cố hy vọng của chúng ta trong hành trình cuộc sống (Ga 6,51).23 Theo thông điệp Ecclesia de Eucharistia: “Bí tích Thánh Thể, sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu trong cộng đoàn tín hữu và lương thực thiêng liêng cho cộng đoàn này, là những gì quý giá nhất mà Hội thánh có thể có được trong cuộc lữ hành theo dòng thời gian” (số 9). Ở đây, ý nghĩa của việc hiệp lễ chính là các tín hữu tham dự vào bữa tiệc thánh để thâu nạp năng lượng và sức mạnh từ lương thực là Chúa Kitô cho hành trình cuộc sống của mình, giống như ngôn sứ Êlia trong cuộc lữ hành tiến đến núi Khôrep đã được thiên sứ của Đức Chúa nói: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa” (1V 19,7).24

IV. Thánh lễ: Khơi lên niềm hy vọng cho cuộc lữ hành trần thế

Thánh Thể là bí tích của hy vọng, là hành động làm mới niềm hy vọng nơi chúng ta vốn là dân hy vọng hằng cầu xin cho “Nước Cha trị đến”: hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn ngay bây giờ, một tương lai không còn sự dữ (bất toàn, tội lỗi và những biến loạn trong cuộc sống); nhất là hy vọng được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Như thế, Thánh lễ trở thành khoảnh khắc mạnh mẽ để khơi dậy, nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng.25

1. Hy vọng một tương lai tốt đẹp ngay đời này

Trong Kinh Cậy, chúng ta xin Chúa “ban ơn cho con giữ đạo nên ở đời này.” Cỏn trong Kinh Nguyện Thánh Thể III, chúng ta nguyện cầu Chúa “thương ban cho Hội Thánh Chúa trên đường lữ thứ trần gian được vững mạnh trong đức tin và đức mến.” Quả thật, là một hữu thể chưa hoàn thành và không hoàn hảo, chúng ta cần đến ân sủng, lòng thương xót, phụng vụ và bí tích. Qua Hy lễ Tạ ơn, con người khao khát vượt qua chính mình với niềm hy vọng về một tương lai hoản hảo hơn và kiện toàn hơn; cũng như khao khát vượt qua chính mình với những dấu chỉ của hy vọng: một là sự vui mừng vì được lãnh nhận Bánh Hằng Sống và Chén Hân Hoan; hai là sự dấn thân phục vụ một cách quảng đại, tích cực, và hy sinh (x. GLCG 1818).26

Khi nối kết giữa Thánh lễ và niềm hy vọng, chúng ta chú ý đến lời khẳng định của Martelet rằng mọi bữa ăn Thánh Thể “đều là của ăn đàng, là việc cung cấp niềm hy vọng cho cuộc lữ hành cho tới khi Người đến” đang khi Hội Thánh trải qua những ngày tháng biến động, rên xiết và quằn quại trong khó nhọc (x. Rm 8, 19-22).27 Qua Thánh lễ, chúng ta được cung cấp nền tảng cho hoạt động chứa chan hy vọng ở tương lai khi chắc chắn rằng hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi vì niềm hy vọng căn bản của Thánh Thể có thể được gọi là sự biến đổi (1Cr 7,31; Kh 21,5; 1Pr 3,13; Gaudium et Spes, số 39).28 Đức giáo hoàng Biển Đức XVI nói: “Chúng ta thấy một dấu chỉ nổi bật của những tín hữu Kitô: họ có tương lai, không phải là họ biết tường tận chi tiết về những gì đang chờ đợi họ, nhưng họ biết cách tổng quát là cuộc sống của họ không kết thúc trong hư không. Khi tương lai được bảo đảm như một thực tại tích cực thì lúc đó hiện tại trở nên có thể sống được” (Spe Salvi, số 2). Như thế hiện tại là thời gian của hy vọng, chúng ta là những người hành hương của hy vọng, Hy lễ Tạ ơn là cử hành “sự vĩnh cửu trong thời gian”, và được cử hành trong thời gian của hy vọng trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai.29 Điều mà phụng vụ cung cấp cho chúng ta ở đây và bây giờ là sự trọn vẹn hoàn toàn của những gì chưa được hoàn thành.30

Qua Thánh lễ, niềm hy vọng vào một tương lai tốt đẹp được cảm nhận rõ rệt và được củng cố khi những lễ vật được đem lên và rồi sẽ được biến đổi thành Mình và Máu Chúa Kitô. Tất cả nhằm biểu thị rằng quyền năng của Thiên Chúa, như cứ điểm của niềm hy vọng, có thể biến đổi những giới hạn và bất toàn của con người thành phương tiện ân sủng; có thể biến đổi chúng ta cùng với những lễ phẩm hiến dâng, mỗi ngày và từng chút một, trở nên chính Thực Tại chúng ta lãnh nhận khi rước lễ.31 Giá trị của lời kinh đi sau Kinh Lạy Cha [“… xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”] là ở chỗ nhấn mạnh đến chiều kích cậy trông, cụ thể là xin Chúa giải thoát khỏi chúng ta mọi sự dữ và tội lỗi, được bình an trước mọi biến loạn trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô ngự đến: chính là niềm hy vọng hồng phúc của chúng ta.32

Một trong những mục đích của hành hương là làm việc đền tội, thậm chí thay cho việc đền tội công khai bởi vì tội lỗi để lại dấu vết và hậu quả, cả bên ngoài lẫn bên trong, cần được thanh tẩy qua ân xá và ơn tha thứ từ Chúa Kitô. Kinh nghiệm được tha thứ giúp mở rộng lòng chúng ta, làm cho chúng ta dễ dàng tha thứ cho người khác, từ đó đổi mới tương lai với một cái nhìn bình an hơn với quá khứ (x. SNC 23). Cũng một ý nghĩa như vậy khi chúng ta thưa lên Kinh Thú Tội, Kinh Lạy Cha, và lời nguyện sau Kinh Lạy Cha:

a. Với Kinh Thú Tội và câu “và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”, cộng đoàn xưng thú tội lỗi và xin ơn tha thứ trước Thiên Chúa đầy lòng thương xót để bộ mặt mỗi cá nhân và Hội thánh trở nên tươi sáng hơn,33 cũng như để chuẩn bị tâm hồn xứng đáng lãnh nhận chính Chúa vào lòng sau khi chúng ta đã biết hiệp thông với người khác (x. QCSL 81). Chúng ta “xin Ðức Maria, các thiên thần, các thánh và anh (chị) em, khẩn cầu cho trước tòa Thiên Chúa” nhằm phù trì cho chúng ta trên con đường hướng về sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, khi tội lỗi bị hủy diệt vĩnh viễn.34 Kinh Tôi Thú Nhận giúp biến đổi chúng ta từ thất vọng vì tội lỗi sang hy vọng và cảm tạ vì lòng từ bi của Chúa, củng cố niềm hy vọng của chúng ta rằng tội lỗi không có tiếng nói cuối cùng, vì Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ và phục hồi con người. Đây là nguồn hy vọng vượt quá những gì chúng ta đáng được và gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới (x. Ep 3,20);

b. “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” nghĩa là xin sao cho, khi cơn cám dỗ đến, chúng ta được sức mạnh của Chúa gìn giữ và đỡ nâng (Ga 17,15) hầu có thể trung thành với Chúa, không bị nao núng thất bại, không bị rơi vào cạm bẫy của tên cám dỗ (x. 1Cr 10,12; Ga 14,1)35

c. “Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” nghĩa là xin Chúa giúp chúng ta thoát khỏi tội lỗi và mọi thứ biến loạn (1Tx 5,3), biểu lộ sự vinh thắng của Chúa Cha nơi Chúa Con, Đấng đã chiến thắng Satan và tội lỗi (Rm 8,37; Kh 2–3; 12,10-12; 15,2; 21,6-7), Đấng giải thoát chúng ta khỏi ác thần, khỏi mọi thứ gian tà, khỏi công việc và cạm bẫy của chúng (x. Rm 7,24; Gl 1,4; 1Tx 1,10; GLCG 2864).36

2. Hy vọng Nước Trời và sự sống vĩnh hằng

Như những lữ khách trong thế giới này, chúng ta được tạo dựng cho sự sống vĩnh cửu nhưng vẫn đang chiến đấu để đạt tới sự thành toàn và trông ngóng sự hoàn tất trong ngày của Chúa (Rm 5,9; 1Cr 5,5; Hr 9, 28). Đối với Kitô hữu, theo Schillebeckx, Hội Thánh và thế giới đang trên đường tiến tới vương quốc nhưng chưa là vương quốc, ví thế niềm hy vọng không chỉ là những khát vọng trần thế, hay khát vọng chứa đựng trong những giới hạn của thế giới chóng qua; càng không phải là loại hy vọng mang tính cá nhân và hẹp hòi, cũng không phải là thỏa mãn hay bằng lòng với những gì đạt được hay đã hoàn tất trong thế giới này (x. Spe Salvi, số 30).37 Niềm hy vọng Kitô giáo là một hy vọng cao cả, vượt lên trên mọi thứ khác mà chỉ có thể là Thiên Chúa, Đấng bao gồm toàn thể thực tại và là Đấng ban phát cho chúng ta cái mà chúng ta, tự mình, không thể đạt được (Spe Salvi, số 31). Hậu nhiên niềm hy vọng/đức cậy Kitô giáo là sự tin tưởng phó thác vào lời hứa cứu độ của Thiên Chúa, lời hứa về sự phục sinh trong tương lai, được hoàn tất trong Đức Kitô qua Mầu nhiệm Vượt qua của Ngài (2Cr 1,20) – Đấng có một dung mạo loài người và đã yêu thương chúng ta đến cùng (Spe Salvi, số 31).38 Đây là niềm hy vọng vững vàng như hạnh phúc đích thực của đời mình, là niềm mong chờ vào sự sống lại trong tương lai, là niềm hy vọng được sống mãi mãi trong Chúa và được thực hiện cách dứt khoát, hòan hảo trong vương quốc vĩnh hằng của Chúa (Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội “Lumen Gentium” [LG], các số5, 48; GLCG 1817-18; SNC 19).39 Tất cả được diễn tả một cách đơn sơ trong lời Kinh Cậy: “… cho ngày sau được lên thiên đàng xem thấy mặt Đức Chúa Trời hưởng phúc đời đời, vì Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy chẳng có lẽ nào sai được.” Khi thưa lên “Nước Cha trị đến” trong Kinh Lạy Cha, chúng ta được mời gọi suy tư về mục tiêu của mỗi Thánh lễ – đó là sự hợp nhất chung cuộc và trọn vẹn với Chúa.40

Thánh lễ là cuộc tưởng niệm Chúa chịu chết, đồng thời hiện tại hóa cuộc thương khó đã qua và phóng tới tương lai cho tới khi Chúa lại đến trong ngày cánh chung. Chiều kích lữ hành này làm cho bí tích Thánh Thể thành một biến cố cuốn hút chúng ta và đem lại cho cuộc lữ hành trần thế của chúng ta dồi dào niềm hy vọng (Tông thư “Lạy Chúa, Xin Ở Lại Với Chúng Con”[Mane Nobiscum Domine], số 15). Việc tưởng niệm hy tế của Đức Kitô khẳng định sự chiến thắng của tình yêu Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết. Qua đó, tín hữu được củng cố niềm hy vọng rằng sự dữ, sai trái, đau khổ và cái chết không có tiếng nói sau cùng và không phải là dấu chấm hết, rằng lịch sử nhân loại và lịch sử của mỗi người không đi vào ngõ cụt hoặc vực thẳm tăm tối. Niềm hy vọng được cứu độ hướng chúng ta tới cuộc gặp gỡ với Đức Chúa hiển vinh, là cửa ngõ dẫn chúng ta đến một thế giới mới như miền Đất Hứa mới để sống đời đời trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa (x. Mt 5,5; GLCG 1820; SNC 19). Khi cử hành Thánh Thể, chúng ta tiền dự vào một bữa ăn khác là bàn tiệc thiên quốc; hướng về một ngày khác thuộc về tương lai đang đến, và khao khát Chúa Kitô, Đấng dẫn đưa chúng ta vào vương quốc của Ngài.41

Thánh lễ nhắc nhở tín hữu rằng cuộc đời này là một hành trình hướng về quê trời, và mọi hoạt động trần thế cần được định hướng bởi mục tiêu cánh chung này (SNC 18). Mỗi Thánh lễ là một hành trình biểu tượng hướng về đích điểm tối hậu: Giêrusalem trên trời, biểu tượng của Nước Trời. Hội Thánh vẫn ca tụng mầu nhiệm Thánh Thể như sau: “Ôi yến tiệc Mình và Máu Thánh, Chúa Kitô thành lương thực nuôi ta! Tiệc nhắc nhở Người đã chịu khổ hình và đổ đầy ân sủng xuống cõi lòng nhân thế; tiệc bảo đảm cho ta một ngày mai huy hoàng rực rỡ” (GLCG 1402). Ở đây, Thánh Thể được ví như một bàn tiệc và được nhìn dưới ba chiều kích: hiện tại, quá khứ, và tương lai. Chiều kích tương lai của bí tích Thánh Thể được diễn tả qua từ ngữ “tiệc bảo đảm cho ta một ngày mai huy hoàng rực rỡ”, tức Thánh Thể là bảo chứng cho niềm hy vọng cánh chung: Đức Kitô đã chết và sống lại, mở ra con đường sự sống đời đời cho nhân loại (1Cr 15,23) để chúng ta có thể thông hiệp sung mãn với Thiên Chúa, tiền dự vào đời sống vĩnh cửu/vào vinh quang thiên quốc, nơi mọi cuộc hành hương trần thế sẽ được hoàn tất: đây chính là mục tiêu của mỗi Thánh lễ (x. GLCG 102425, 1326, 1329, 1402, 1682).42

Câu tung hô “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến” là tiếng kêu của niềm hy vọng, là lời nhắc nhở về niềm hy vọng cánh chung mà Kitô hữu luôn hướng tới: Đây là niềm hy vọng của Hội Thánh lữ hành, trong đó, với lòng đầy tin tưởng, chúng ta hối thúc Chúa mau đến, luôn mong đợi Chúa quang lâm (1Cr 16,22; Kh 22,20; x. SNC 19). Công thức tung hô tưởng niệm trên rõ ràng nêu lên ba chiều kích thiết yếu và căn bản của bí tích Thánh Thể: Chúa Giêsu chịu chết, phục sinh và trở lại trong vinh quang vào ngày cánh chung. Hội Thánh trông đợi Hy lễ của Đức Giêsu phát huy hết tác dụng trong lịch sử vũ hoàn: mỗi khi cử hành Hy lễ Tạ ơn, ngày Đức Kitô trở lại càng trở nên gần gũi hơn (1Cr 11,26), ngày đó sẽ thành hình Trời mới và Đất mới (Kh 21,1-5; 2Pr 3,13; Rm 8,19-23). Và nếu Ngài không lại đến thì còn gì để hy vọng cho đời này và đời sau.43

Trong Kinh nguyện Thánh Thể, các Kitô hữu được nhắc nhớ về sự kết nối giữa phục sinh và sứ vụ, sự cho đi và niềm hy vọng cánh chung.44 Hội Thánh cầu xin Thiên Chúa làm cho cộng đoàn tín hữu “trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô” và được chuẩn bị để chia sẻ sự sống đời đời. Đây là lời cầu nguyện của niềm hy vọng vì cụm từ “trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô” mượn từ Kinh Tiến Dâng của phụng vụ Alexandria [của thánh Basil] mà Anaphora này lại dựa vào Ep 4,3-4: “…Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng.”

Thánh lễ là nơi cộng đoàn cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh, cả những người sống và đã qua đời (NTTL 113, 115). Khi cầu cho kẻ đã ly trần, chúng ta bày tỏ niềm tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa và hy vọng về sự phục sinh của mọi người rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất ơn cứu độ cho tất cả chúng ta qua Hội Thánh (LG48). Thêm nữa, chúng ta khám phá ra sự phong phú về sự chết và sự sống đời sau với niềm hy vọng rằng một ngày kia tất cả sẽ được thấy Thiên Chúa cách tỏ tường, các chi thể của thân thể Đức Kitô sẽ chia sẻ vinh quang với Đầu của mình, và gặp lại, mặt đối mặt với những người mang dấu ấn đức tin đã ra đi trước chúng ta (x. Ga 5,28-29; 6, 39-40; Cv 23,6; 24,15; 26,6-7; 28,20SC32).45

Các Kinh Tiền Tụng nhắc nhớ rằng chúng ta luôn luôn cử hành Thánh lễ cùng với toàn thể Hội Thánh dưới đất cũng như trên trời. Bởi đấy, trong phụng vụ tại thế, Hội Thánh hiệp thông với phụng vụ trên trời bằng cách tiên hưởng phụng vụ được cử hành tại thành thánh Giêrusalem, nơi mà Hội Thánh lữ hành đang tiến về, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa và là nơi mà khi kính nhớ các thánh, Hội Thánh hy vọng sẽ kết hợp và thông phần với các ngài (PV 8; QCSL 318).

Rước lễ diễn tả khát vọng cánh chung của chúng ta. Sự hiệp thông với Chúa Kitô qua rước lễ làm sống động niềm hy vọng rằng mọi tín hữu sẽ được sống lại với Đức Kitô và tham dự vào sự sống viên mãn và vĩnh cửu của Thiên Chúa trên thiên đàng. Khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể như bảo chứng cho bữa tiệc thông hiệp huynh đệ của toàn thể nhân loại trên thiên quốc, tín hữu được bảo đảm về lời hứa sự sống đời đời (Ga 6,51-58). Nhất là khi rước lễ dưới hai hình thì mối tương quan giữa bữa tiệc Thánh Thể và bữa tiệc cánh chung trong nước Chúa Cha được diễn tả rõ nét hơn – chúng ta nhận trước hoa quả của sự sống vĩnh cửu (x. QCSL 281): “Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26, 29). Bởi vậy, theo Wainwright, Thánh lễ cho chúng ta nếm trước Vương quốc vĩnh cửu/Bữa tiệc thiên đàng như được mô tả trong Sách Khải huyền (Kh 19,9); Những ai được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể, thì không cần phải chờ đợi tới đời sau mới có thể đón nhận được sự sống vĩnh cửu, nhưng ngay từ bây giờ đã được kết hiệp với phụng vụ trên trời và tiền dự vào đời sống vĩnh cửu (Lc 22, 14-30; 1Cr 15,28 – GLCG 1326, 1329, 1402, 1682; SC30).46

Trước đó, cụm từ “Hãy nâng tâm hồn lên” trong phần đối đáp dẫn nhập vào Kinh Tiền Tụng được coi là lời mời gọi cộng đoàn hãy nâng tâm trí mình lên “ngai tòa của Thiên Chúa là nguồn ân sủng để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Hr 4,16). Ngai tòa này là nơi Chúa Giêsu, vì chúng ta, hiến dâng chính mình cho Chúa Cha đến muôn đời trong phụng vụ thiên quốc. Thế nhưng, phụng vụ nơi trần gian vẫn còn bất toàn so với phụng vụ thiên quốc và chỉ là vang âm của phụng vụ thiên quốc. Vì thế, Hội Thánh mời gọi tín hữu ngay lúc này “hãy nâng tâm hồn lên” hầu lòng trí có thể vươn cao và vượt xa hơn những gì đang diễn ra nơi phụng vụ dương thế để chúng ta được “biến hình”,47 cảm nếm trước sự hiệp thông mà chúng ta hy vọng sẽ có với Chàng Rể Thánh của chúng ta là Đức Kitô khi bước vào Bài ca của Con Chiên và Bữa tiệc của Con Chiên trên trời với niềm hoan hỷ và kỳ diệu không thể nào diễn tả nổi (x. Kh 19,6-9). Thánh Augustinô nhấn mạnh đến việc nâng tâm hồn lên là thái độ của người được phục sinh, họ hướng lên và chỉ tìm kiếm những thực tại trên trời – nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa – vì quê hương của họ ở nơi thiên quốc (x. Mt 6,21; Cl 3,1-3; Pl 3,20).48

Nội dung chính của các lời nguyện hiệp lễ trong Thánh lễ thường là tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân Thánh Thể, cầu xin được ơn biến đổi và sống xứng đáng với ân sủng Chúa ban, xin ơn hiệp nhất và bền đỗ trong đức tin… nhưng hầu hết là hướng chúng ta về sự sống vĩnh cửu. Vì Thánh Thể là “bảo chứng” cho sự sống đời đời/vinh quang mai hậu, nên lời nguyện hiệp lễ thường khơi dậy nơi chúng ta niềm hy vọng vào ơn cứu rỗi, cầu xin được cùng Chúa Kitô sống lại vinh quang, được tham dự vào thiên quốc sau khi hoàn tất hành trình trần thế.

V. Thánh lễ: làm cho niềm hy vọng bừng sáng

Thánh Tông đồ Phêrô đã khuyên nhủ các Kitô hữu tiên khởi bằng những lời này: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15-16). Còn trong bài giáo lý, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống giúp chúng ta không chỉ có niềm hy vọng mà còn lan tỏa hy vọng, mang hy vọng đến cho nhân loại. Ngài mời gọi các tín hữu hãy là những chứng nhân của niềm hy vọng không làm thất vọng! Người Kitô hữu không thể hài lòng với việc “có” niềm hy vọng mà phải “chiếu tỏa” niềm hy vọng, và là người gieo mầm hy vọng.49 Nói cách khác, từ hôm nay chúng ta hãy để cho niềm hy vọng thu hút chúng ta, và qua chúng ta lan toả đến những ai khao khát niềm hy vọng ấy. Ước gì cuộc sống của chúng ta nói với họ: “Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa” (Tv 27,14; SNC 25). Như vậy, hy vọng không thể là sự thoái thác bổn phận trong cuộc đời này, hay chỉ nhởn nhơ mong đợi một thế giới hạnh phúc trong tương lai, nhưng xét như một cộng đồng hy vọng, Hội Thánh phải cầu nguyện và hành động cho thế giới này tốt đẹp hơn (x. Spe Salvi, các số 32-33, 35; SC92), phải lưu tâm đến tất cả những điều thiện hảo trên thế giới, để không rơi vào cơn cám dỗ nghĩ rằng mình bị sự ác và bạo lực lấn át. Nhưng những dấu chỉ của thời đại, trong đó có nỗi khát vọng của tâm hồn con người, vốn cần đến sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa, đòi phải được biến đổi thành những dấu chỉ của niềm hy vọng (SNC 7).

Tất cả những gì vừa nói trên nếu được nhìn bằng góc độ của thần học phụng vụ thì Thánh lễ sẽ là động lực của sứ vụ hành hương trong thế giới, là sự vận hành đi vào thế giới khi cử hành phụng vụ kết thúc.50 Khi liên kết với Thánh lễ trong sứ vụ lan tỏa niềm hy vọng, chúng ta nhận ra rằng:

• Thứ nhất, hầu hết các lời nguyện hiệp lễ đều thúc đẩy sứ vụ và đời sống chứng nhân hằng ngày của các tín hũu. Bí tích Thánh Thể không chỉ dành cho đời sống nội tâm mà còn thúc đẩy sứ vụ loan báo Tin Mừng và phục vụ tha nhân: mang tình yêu và ân sủng Thánh Thể vào cuộc sống thường ngày, làm chứng cho Đức Kitô trong thế giới.

• Thứ hai, vào lúc kết thúc Thánh lễ, chúng ta được sai đi với lời mời gọi: “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an.” Đây là lời nhắc nhở chúng ta rằng Thánh lễ không kết thúc tại nhà thờ mà tiếp tục trong đời sống hằng ngày. Cũng vậy, hành hương không kết thúc tại nhà thờ mà tiếp tục trong đời sống hằng ngày. Kết thúc Thánh lễ, tín hữu được sai đi để tiếp tục hành trình thiêng liêng trong đời sống hằng ngày, nghĩa là tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô trong thế giới này: mang theo hy vọng và tình yêu để biến đổi thế giới.51

Thánh lễ mời gọi tín hữu sống tinh thần hành hương bằng cách đồng hành với những người nghèo, người đau khổ, và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, đưa họ cùng tiến về Thiên Chúa. Điều này phù hợp với ý định của “Spes non confundit” khi đề nghị chúng ta hãy thực thi một loạt các công việc bác ái như những dấu chỉ của hy vọng (các số 8-15). Đang khi nhìn về “trời mới”, “đất mới” (x. Kh 21,1-5; 2Pr 3,13), thì việc thực thi tất cả những công việc của bác ái và lòng thương xót được đề nghị cho thấy niềm hy vọng của chúng ta không chỉ là hướng về vương quốc của Chúa là thiên đàng mà còn là canh tân thế giới, thể hiện trách nhiệm của chúng ta đối với trái đất (Gaudium et Spes, số 39), hầu hướng mọi người về niềm hy vọng mới,52 làm cho niềm hy vọng Kitô giáo bừng sáng lên trở lại (x. Ecclesia de Eucharistia, số 20, 33).

Kết luận

Cuộc hành hương có thể được diễn giải như một hành trình từ đời tạm đến đời đời, từ niềm khát khao đến sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Niềm hy vọng Kitô giáo không chỉ là trông mong một tương lai trần thế tốt đẹp, mà còn hướng đến và đặt trọng tâm vào sự sống đời đời trong vinh quang Nước Trời như đích điểm của hành hương. Thánh lễ không chỉ là cao điểm của đời sống phụng vụ mà còn là động lực và nguồn sức mạnh, giúp tín hữu tìm được nguồn hy vọng của mình mà tiếp tục cuộc hành hương trên trần thế với niềm hy vọng cánh chung. Thánh lễ, trung tâm của đời sống Kitô hữu không kết thúc tại nhà thờ mà tiếp tục được chúng ta “cử hành” trong đời sống hằng ngày trong tư cách là sứ giả của tình yêu và hy vọng, góp phần giải thoát và biến đổi thế giới theo thánh ý Chúa. Hành hương diễn tả hình ảnh Hội Thánh lữ hành, niềm hy vọng là động lực của hành trình đức tin, và Thánh lễ là điểm gặp gỡ Thiên Chúa và chuẩn bị cho sự hiệp thông với Thiên Chúa cách trọn vẹn khi triều đại Thiên Chúa trị đến. Cả ba cùng hướng chúng ta đến mục đích cuối cùng là sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa trong Nước Trời.

Lm. Giuse Phạm Đình Ái, SSC

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*