Tân Phúc âm hóa gia đình: Gia đình xây dựng và phát triển xã hội

 

 

Trong “Một gợi ý Mục vụ TÂN PHÚC-ÂM-HÓA ĐỂ THÔNG TRUYỀN ĐỨC TIN – PHÚC-ÂM-HÓA ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH”, Ủy ban Mục vụ Gia đình (Hội Đồng Giám Mục Việt Nam) viết: “Để các gia đình, trong các cộng đoàn giáo xứ, cùng nhau suy tư, cử hành và sống lời kêu gọi trên của các vị mục tử, chúng tôi xin giới thiệu các đề tài về tình yêu-hôn nhân-gia đình sau đây như một gợi ý mục vụ cho 12 tháng của năm tới.” Tiếp theo là bảng liệt kê 12 chủ đề mục vụ dành cho năm Phụng vụ 2014 (12/2013-11/2014). Chủ đề số 12 (dành cho tháng 11/2014) là “GIA ĐÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI”. Xin cùng tìm hiểu về chủ đề này.

 

Ngày 6/10/2014, trong bài giảng khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa đặc biệt về Gia đình, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô phát biểu: “Chúng ta cũng vậy, trong khóa họp này, chúng ta được kêu gọi để lao tác cho vườn nho của Thiên Chúa. Thượng HĐGM thế giới không phải để thảo luận những ý tưởng hay ho và cấp tiến, hay để xem ai là người thông minh hơn…, nhưng để nuôi dưỡng và chăm nom vườn nho của Thiên Chúa được tốt hơn, để cộng tác với giấc mơ của Người, nhắm đến dự phóng tình yêu trên dân của Thiên Chúa. Trong trường hợp này, Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải quan tâm đến gia đình, vốn ngay từ khởi đầu đã là một phần thiết yếu trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.”

 

Như vậy, gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Gia đình là tổ ấm của mỗi cá nhân, là cầu nối giữa cá nhân và xã hội, là nơi trung chuyển mọi thông tin từ cá nhân đến xã hội và ngược lại. Với tính cách là “tế bào xã hội”, gia đình có tác động to lớn đến phát triển của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Do đó, cả thế giới được coi là một đại gia đình trong mối tương giao liên đới với nhau, nên mới có câu “tứ hải giai huynh đệ” (bốn bể là anh em). Tự bản chất, mối tương quan liên hợp được xây dựng trên nền tảng tình yêu, vì thế nó sẽ có 2 mặt tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực, tình yêu sẽ đem lại ấm no, hòa bình, hạnh phúc. Tuy nhiên, với xã hội, thì khi mối tương quan không đặt trên nền tảng tình yêu, sẽ xảy ra chiến tranh, khủng bố, huynh đệ tương tàn; với Giáo hội thì cũng đã có những cuộc đại ly giáo, những Giáo hội ly khai. Cũng chính vì thế, nên vẫn thật cần thiết đặt lại vấn đề tương quan giữa gia đình với cộng đồng xã hội, để từ đó các gia đình Ki-tô hữu ý thức được nhiệm vụ căn bản là góp phần xây dựng và phát triển xã hội, Giáo Hội.

 

I. Tương quan giữa gia đình với đoàn thể :

 

Nói tới đoàn thể là nói tới cộng đồng tuy không cùng chung khí huyết, nhưng lại cùng chung sinh hoạt, hoạt động, nhắm tới một mục đích nào đó về mặt xã hội hay tôn giáo. Tất cả cá nhân trong những đoàn thể đó có một quan hệ hỗ tương gắn bó với nhau, bởi vì, và trên tất cả, thì những con người ấy tuy được sinh ra thông qua những bậc cha mẹ khác nhau nơi trần thế, nhưng tựu trung đều do Thượng đế tạo dựng; nên tất cả đều là con cái của Thiên Chúa (“Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.” – Ga 1, 13). Về mặt dân sự, các đoàn thể, hội đoàn – dù dân lập hay công lập – chính là những cánh tay nối dài của chính quyền đến với dân chúng và giữa dân chúng với nhau. Nói cách khác, các đoàn thể – cách riêng, các đoàn thể từ thiện, bác ái – đã hỗ trợ rất đắc lực cho công cuộc quốc kế dân sinh.

 

Riêng với Ki-tô Giáo, thì các đoàn thể (kể cả các hội dòng) thường phát sinh từ nhu cầu bức thiết của sứ vụ truyền giáo là sứ vụ duy nhất của Giáo Hội. Các hội đoàn thường tự phát, sau khi hình thành mới xin phép và được Hội Thánh phê chuẩn cho hoạt động. Các thành viên trong hội đoàn (từ giáo dân tới tu sĩ) đều xuất thân từ những gia đình, nên mối tương quan liên hợp giữa gia đình với các hội đoàn tôn giáo cũng chẳng khác gì giữa gia đình với các hội đoàn dân sự. Cũng như ngoài xã hội, các hội đoàn, dòng tu đã hỗ trợ rất đắc lực cho Giáo Hội trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, và còn hơn thế nữa, bao quát sang cả lãnh vực dân sự, dân sinh, lo cho đời sống trần thế của mọi người không phân biệt tôn giáo, sắc tộc (“Như thế, gia đình trở thành nền tảng của xã hội vì là nơi mà nhiều thế hệ gặp gỡ và giúp nhau nên khôn ngoan đầy đủ hơn cũng như giúp nhau hòa hợp những quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác của cuộc sống xã hội. Bởi đó, tất cả những ai có ảnh hưởng trên các cộng đoàn và tập thể xã hội phải góp công hữu hiệu thăng tiến hôn nhân và gia đình.” – Hiến chế về Mục vụ “Gaudium et Spes”, số 52).

 

II. Tương quan giữa gia đình với xã hội, Giáo Hội :

 

Khi nói gia đình là Giáo Hội tại gia, là xã hội thu nhỏ, thì đã mặc nhiên công nhận “xã hội tính” của gia đình. Một gia đình không thể chỉ đóng kín trong những sinh hoạt riêng tư, nhưng là mở rộng mối quan hệ với những gia đình chung quanh, để kính trọng yêu thương nhau, trao đổi học hỏi và quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, chung tay đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển văn minh tình thương. Chỉ nói mặt vật chất không thôi, thì cũng đã thấy rõ không một cá nhân nào có thể sống đơn lẻ; cũng vậy, không một gia đình nào có thể tự cung tự cấp hết tất cả mọi nhu cầu của cuộc sống. Ấy là chưa kể về mặt tinh thần thì quan hệ hỗ tương giữa các cá nhân, các gia đình đã như một nhu cầu tất yếu bất khả thay thế. Ca dao tục ngữ Việt Nam luôn nhắc nhở: “hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau”, “bán anh em xa mua láng giềng gần”; rộng ra hơn nữa thì có “Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống những chung một giàn” hoặc “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”.

 

Vấn đề này đã được Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 2207) giải thích rõ ràng: “Gia đình là tế bào căn bản của đời sống xã hội, là xã hội tự nhiên, nơi đó, người nam và người nữ được mời gọi tận hiến cho nhau trong tình yêu và trong việc thông truyền sự sống. Quyền bính, sự ổn định và đời sống tương giao nơi gia đình là nền tảng cho tự do, an ninh và tình huynh đệ của xã hội. Gia đình là cộng đoàn, nơi đó từ thời thơ ấu, con người được học biết tôn trọng những giá trị luân lý, tôn thờ Thiên Chúa và biết sử dụng tự do. Đời sống gia đình chuẩn bị cho đời sống xã hội.”

 

Trong gia đình, vị trí con người (nhân vị) được xác định thông qua quan hệ hỗ tương giữa các thành phần. Cũng vậy, nhân vị con người phải được xây dựng trên mối tương quan cộng đồng. Về điểm này, trong xã hội, mỗi gia đình cần phải biết  mở rộng cửa nhà mình, và hơn nữa, mở rộng lòng mình trước những nhu cầu của anh chị em trong xã hội, hoặc còn đi đến chỗ dấn thân cụ thể để bảo đảm cho mỗi gia đình có được nơi ăn chốn ở cần thiết như một môi trường tự nhiên để bảo vệ và làm cho gia đình được phát triển. Và trên tất cả, “Trong gia đình, nhân vị không phải chỉ được sinh ra và dần dần nhờ giáo dục được dẫn vào trong cộng đồng nhân loại, nhưng nhờ tái sinh của bí tích Thánh Tẩy và nhờ giáo dục đức tin, ngôi vị ấy cũng được dẫn vào trong gia đình của Thiên Chúa là Hội Thánh. Gia đình nhân loại, bị phân hoá vì tội lỗi, được phục hồi trong sự hợp nhất của nó nhờ quyền năng cứu chuộc do cái chết của Đức Ki-tô. Nhờ tham dự vào hiệu năng cứu độ của biến cố ấy, hôn nhân Ki-tô Giáo trở thành môi trường tự nhiên để cho nhân vị được hội nhập vào trong đại gia đình Hội Thánh.” (Tông huấn Gia Đình “Familiaris Consortio”, số 15).

 

III- Gia đình với nhiệm vụ xây dựng và phát triển xã hội, Giáo Hội:

 

Tông Huấn Gia Đình “Familiaris Consortio” (số 44) đã khẳng định: “Vai trò xã hội của gia đình chắc chắn không thể giới hạn vào việc truyền sinh và giáo dục, cho dù hai công việc ấy là hình thức đầu tiên không thể thay thế được để diễn tả vai trò ấy. Gia đình, dù biệt lập hay kết thành hiệp hội, đều có thể và phải dấn thân cho nhiều công cuộc phục vụ xã hội, cách riêng là lo cho những người nghèo, và trong mọi trường hợp, lo cho những người trong những hoàn cảnh mà các tổ chức từ thiện và cứu tế công cộng không thể lo hết được. Sự đóng góp xã hội của gia đình có tính cách độc đáo riêng mà càng ngày người ta càng thấy rõ và càng phải cổ vũ nhiều hơn. Nhất là khi con cái bắt đầu lớn dần, để làm cho tất cả mọi thành phần trong gia đình đều tham gia hết sức có thể.”

 

Với tư cách là một cộng đồng biểu hiện sự sống và tình yêu, gia đình Ki-tô hữu góp phần tích cực và có trách nhiệm vào sứ mạng của Hội Thánh và xã hội, bằng cách tự đặt mình trong vai trò phục vụ cả từ trong yếu tính lẫn trong hành động của mình. Vì xuất phát từ một cuộc hôn nhân là hình ảnh của “Giao ước Tình yêu” nối kết vị Hôn phu Giê-su Ki-tô với Hiền thê Giáo Hội; đồng thời vì dự phần vào giao ước ấy, gia đình Ki-tô hữu làm cho mọi người thấy sự hiện diện sống động của Đấng Cứu Thế trong thế giới và bản chất đích thực của Hội Thánh, qua tình yêu của vợ chồng, qua sự sinh sản con cái, qua sự hợp nhất và trung tín của gia đình, cũng như qua sự hợp tác thân ái giữa mọi thành phần trong gia đình; để từ đó nhắm tới việc phục hưng giá trị đích thực cho đại gia đình nhân loại trên nền tảng Tình Yêu.

 

Rõ ràng gia đình là nền tảng của xã hội, là nơi mà nhiều thế hệ gặp gỡ và giúp nhau nên khôn ngoan đầy đủ hơn, cũng như giúp nhau hòa hợp những quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác của cuộc sống xã hội. Vì vậy, “người Ki-tô hữu biết lợi dụng thời đại và phân biệt những gì trường tồn với những hình thức hay thay đổi, phải nhiệt thành đề cao những giá trị hôn nhân và gia đình bằng chứng tá của chính đời sống mình cũng như bằng hành động hợp tác với những người thiện chí. Như vậy, sau khi vượt qua các trở ngại, họ sẽ thỏa mãn được những nhu cầu của gia đình và cung cấp cho gia đình những tiện nghi hợp với thời đại mới. Muốn đạt được mục đích ấy, rất cần đến ý thức Ki-tô giáo của các tín hữu, lương tâm luân lý ngay thẳng của mọi người cũng như sự khôn ngoan và khả năng chuyên môn của những ai am tường các môn học đạo.” (Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội “Gau dium et Spes”, số 52).

 

Chính gia đình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa sứ mệnh trở nên tế bào đầu tiên và sống động của xã hội. Gia đình sẽ chu toàn được sứ mệnh đó nếu gia đình sống đúng tinh thần bác ái Ki-tô giáo: “Yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực và yêu tha nhân như chính mình” (Lc 19, 27). Cụ thể hơn, công việc phục vụ của gia đình phải được thực hiện một cách cộng đồng: vợ chồng phải phục vụ Hội Thánh và thế giới với tư cách là đôi bạn, cũng như cha mẹ và con cái phải phục vụ Hội Thánh và thế giới với tư cách là gia đình. Và “Sau khi đã xác định nền tảng cho phép các gia đình Ki-tô hữu tham dự vào sứ mạng của Hội Thánh, việc quan trọng bây giờ là đưa ra ánh sáng những gì bao gồm trong sự tham dự ấy, theo ba sự quy chiếu, mà thật ra chỉ là một, tức là quy chiếu vào Đức Giê-su Ki-tô, trong tư cách là ngôn sứ, là tư tế và là vua bằng cách trình bày gia đình Ki-tô hữu như là : 1- Cộng đồng tin và rao giảng Tin Mừng; 2- Cộng đồng đối thoại với Thiên Chúa; 3- Cộng đồng phục vụ con người.” (Tông huấn Gia Đình “Faniliaris Consortio”, số 50).

 

Nói cách cụ thể, gia đình phải nhiệt tình trong công tác Tông đồ giáo dân như Sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân “Apostolicam Actuositatem” (số 11) nhắc nhở: “Trong các việc tông đồ của gia đình cần phải kể đến những việc như: nhận làm con những đứa trẻ bị bỏ rơi, ân cần tiếp đón những khách lạ, cộng tác với học đường, khuyên bảo và giúp đỡ thanh thiếu niên, giúp những người đã đính hôn chuẩn bị cho việc hôn nhân của họ được tốt đẹp, giúp dạy giáo lý, nâng đỡ những đôi vợ chồng cũng như những gia đình khi họ gặp khó khăn về vật chất hay tinh thần, lo cho người già cả không những có những điều cần thiết, mà còn cung cấp cho họ những tiện nghi chính đáng của tiến bộ kinh tế… Vì Ðấng Tạo Hóa đã đặt cộng đoàn hôn nhân làm nguồn gốc và nền tảng cho xã hội loài người và dùng ơn thánh Ngài nâng lên hàng bí tích cao cả trong Chúa Ki-tô và trong Giáo Hội (x. Ep 5, 32) cho nên việc tông đồ của vợ chồng và của các gia đình có tầm quan trọng đặc biệt, đối với Giáo Hội cũng như đối với xã hội dân sự.”

 

KẾT LUẬN :

 

Tóm lại, sứ vụ Phúc Âm hóa không chỉ giới hạn trong phạm vi Giáo Hội, mà còn nhắm tới mục đích xây dựng và phát triển xã hội. Để đạt mục đích, cần phải củng cố và thăng tiến những mối tương quan liên vị, để từ đó, tiến tới củng cố và bồi dưỡng mối tương quan liên hợp với Giáo Hội, xã hội. Đó chính là hiện thực hoá đời sống tương thân tương ái với mọi người, mọi gia đình không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, tôn giáo, chính kiến … để xây dựng một xã hội công bình, bác ái, đoàn kết … với châm ngôn: “Đừng đòi hỏi xã hội, Giáo Hội đã làm gì cho ta, mà hãy tự hỏi ta đã làm gì cho xã hội và Giáo Hội”. Ấy cũng bởi vì bổn phận và trách nhiệm chính yếu của mỗi Ki-tô hữu chỉ có thể là: bổn phận của một công dân nước trần thế + bổn phận công dân Nước Trời.

 

Trong Tông huấn Gia Đình “Familiaris Consortio” (phần kết luận), Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II viết: “Chúng ta hãy nhìn Thánh Gia Na-da-rét, Gia đình có một không hai trong thế giới, Gia đình đã sống âm thầm, lặng lẽ trong một thị trấn nhỏ Palestina, Gia đình đã bị thử thách vì nghèo khổ, bắt bớ, lưu đầy, Gia đình đã tôn vinh Thiên Chúa một cách trổi vượt và tinh khiết vô song: Gia đình ấy sẽ không quên cứu giúp các gia đình Ki-tô hữu và cứu giúp cả mọi gia đình trên thế giới, để họ trung thành với các bổn phận hằng ngày của họ, để họ biết cách chịu đựng những âu lo và xáo trộn trong cuộc sống, để họ quảng đại mở lòng ra trước những nhu cầu của người khác, để họ vui vẻ hoàn tất chương trình Thiên Chúa đã định cho họ.”

 

Đức đương kim Giáo Hoàng Phan-xi-cô cũng phát biểu trong bài giảng khai mạc THĐ/GM về GIA ĐÌNH: “Cha mời gọi tất cả mọi người hãy trợ giúp những công việc của Thượng HĐGM cùng với lời cầu nguyện, khẩn khoản nài xin Đức Mẹ, sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Nữ Trinh Maria. Giờ phút này, chúng ta hiệp thông cách thiêng liêng cùng với nhiều người, đang ở Thánh địa Pompei, dâng lên Đức Mẹ Mân Côi lời kinh “Supplica” truyền thống. Lời kinh ban bình an cho tất cả gia đình và toàn thể thế giới.”

 

Xin cùng hiệp ý dâng lên Đức Trinh Nữ Maria Nữ Vương Hoàn Vũ, Nữ Vương Gia Đình: “Lạy Mẹ là Mẹ chúng con cùng là Nữ Vương cả loài người, chúng con nguyện dâng cả Hội Thánh cùng cả loài người cho Trái Tim Vẹn sạch Mẹ, cậy nhờ lòng nhân ái Mẹ phù trì hộ vực mà Nước Chúa chóng khải hoàn thịnh trị, cho các dân muôn đời về sau hòa hảo cùng nhau, được ơn nghĩa với Chúa, đồng thanh cao rao Mẹ là Bà có phúc, và từ đông tây, nam bắc, được hợp lời cùng Mẹ, hát bài ngợi khen cảm tạ yêu mến Chúa Giê-su là mạch duy nhất, đầy dẫy sự thật, sự sống, cùng sự bình an đời đời. Amen.” (Kinh “Dâng Loài Người Cho Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria”).

 

JM. Lam Thy ĐVD.