Tẫn liệm hay tẩm liệm

Trong một dịp tĩnh tâm năm của linh mục, thấy một cha có cuốn nghi thức an táng, trong đó có đề cập đến việc “tẩm liệm”, tôi nói: “Tẫn liệm mới đúng, sao lại là tẩm liệm”. Cha ấy nói: “Dùng quen rồi không sửa lại nữa”. Tôi rất lấy làm ngạc nhiên, chữ dùng sai không chịu sửa, chỉ vì dùng quen.

Thử vào www.yahoo.com tìm chữ “tẩm liệm” tôi thấy có đến 1.500 chữ trong hơn 400 trang Web; khi tìm chữ “tẫn liệm” tôi thấy có không đến 600 chữ trong khoảng 170 trang Web.

Mở các từ điển hay tự điển (xem phần Sách tham khảo) thì hầu hết đều không có từ “tẫn liệm” hay “tẩm liệm”, trừ những cuốn sau đây:

 

1)      ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ[1]

Tẩm: Ngâm, dầm.

          tẩm thuốc = Dùng nước gì mà dầm thuốc.

          tẩm rượu = Dầm với rượu, ngâm với rượu.

Tẫn: Phong gói tử thi mà để vào hòm, liệm.

          tẫn liệm; quàn tẫn = liệm mà để lại, chưa chôn.

Liệm: Để tử thi vào hòm.

          Tẫn liệm: Liệm mà để lâu, quàn lại cũng có nghĩa là liệm.

 

2)      TỪ ĐIỂN TRUNG VIỆT[2]

Tẩm: Thấm, ngâm, tẩm tưới, dần dần.

Tẫn: (In sai tẩn) Quàn áo quan lại chưa chôn.

Liệm: Cho tử thi vào áo quan.

 

3)      VIỆT NGỮ CHÁNH TẢ TỰ VỊ[3]

Tẩm: Thấm, ngâm; thấm lần lần.

          tẩm bổ; dâm tẩm, nhập tẩm, nhiễm tẩm; nhuận tẩm; tẩm tiệm.

Tẫn: Phong gói tử thi mà để vào hòm.

Liệm: Bó xác người chết mà để vào hòm.

          liệm táng; đại liệm; khâm liệm; nhập liệm; tẫn liệm; tiểu liệm; trang liệm.

 

4)      VIỆT NAM TỰ ĐIỂN[4]

Tẩm: Dầm, ngấm cho thấm.

Tẫn: Dùng hàng vải gói ghém thây người chết để trong hòm.

 

5)      TỪ ĐIỂN HÁN – VIỆT HIỆN ĐẠI[5]

Tẫn: Xác đã liệm nhưng chưa chôn.

Liệm: Đặt người chết vào áo quan.

Tẫn liệm: Khâm liệm; bó.

Vì phần lớn các từ điển đều không có chữ “tẫn liệm” hay “tẩm liệm”, kể cả cuốn TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT của Viện Ngôn Ngữ Học, 2005 (11) , TỪ ĐIỂN CHÍNH TẢ TIẾNG VIỆT của PGS Tiến sĩ Nguyễn Trọng Báu, 2005 (12) cũng không có. Nên chúng ta phải tìm lại nguồn gốc của chữ “tẫn” và “tẩm”.

1.  Nghĩa chữ tẫn

Tẫn chữ Hán viết là殯: gồm có bộ歹(đãi) và chữ賓(tân).

Chữ Hán là loại chữ biểu ý, gồm 4 thể loại: tượng hình, chủ sự, hội ý và hình thinh. Chữ殯(tẫn) thuộc về thể loại hội ý và hình thinh. Bộ歹(đãi) có nghĩa là chết, chữ賓(tân) có nghĩa là khách, nên thuộc thể loại hội ý. Và bộ歹(đãi) tượng trưng cho sự chết, chữ賓(tân) tượng trưng cho âm thanh, nên cũng thuộc thể loại hình thinh.

–          Đãi (歹) nghĩa là thi thể;

–          Tân (賓) là lễ viếng người chết, như người khách. Chữ tân(賓) còn có nghĩa là khách, tức là không dừng lại lâu, nên phải làm cho tốt đẹp việc tiễn đưa. Nghĩa chính của chữ tân賓là người chết nằm trong áo quan sẽ được dời đi chôn, khách đến viếng.

Theo ngữ học, chữ “tẫn” (殯) có những nghĩa sau:

Danh từ: 1. Linh cữu liệm rồi mà chưa chôn, gọi là tẫn.

                      2. Việc liệm và chôn, gọi là tẫn.

Động từ: 1. Đặt áo quan rồi đưa thi thể vào liệm.

                      2. Quàn tạm.

                      3. Chôn cạn để sau này cải táng.

                      4. Mai một.

2. Nghĩa chữ tẩm

Tẩm chữ hán viết là(浸), chữ xưa viết 濅, là thể hội ý, viết bộ氵(thủy), có nghĩa: ngâm , dầm, nhúng, ngấm, thấm, thấm lần lần, làm cho một chất lỏng ngấm vào, là đưa vật vào nước cho ướt thấm cả để làm sạch, nên đi với bộ氵 (thuỷ), và chữ bên cạnh cho âm tẩm. Nói chung là đưa vật vào nước thì vật sẽ được sạch. Có nghĩa là thấm, ngâm; thấm lần lần; làm cho một chất lỏng ngấm vào.

Ngoài ra, “tẩm” còn có các nghĩa: (1) Chìm; (2) Tưới; (3) Nhuận, dùng dầu, nước làm cho đỡ khô; (4) Rửa; (5) Sâu; (6) Có bổ ích; (7) Dần dần; (8) Nhìn sơ; (9) Phạm, thông với chữ  “Xâm”; (10) Từ gọi chung dầm ao.

3.  Nhận xét

Như thế, chữ “tẩm” hoàn toàn không có nghĩa là liệm xác chết. Khi người ta ướp xác thì nói là “tẩm xác”. Còn khi phong gói tử thi mà cho vào hòm thì nói là “tẫn liệm”.

Ở Việt Nam hiện giờ hầu như không ai ướp xác nữa. Tôi cũng đi thực tế vòng quanh nhiều trại hòm trong khu vực Chợ Lớn, người ta chỉ dùng chữ “tẫn liệm” hay “nhập quan”, chứ không khi nào dùng chữ “tẩm liệm”.

Kết luận

Vậy, ta nên dùng từ “tẫn liệm”, thay vì từ “tẩm liệm”.