Phân định Thần khí trong đời tu

Đời sống tu trì là một cuộc sống rất ý nghĩa, bởi vì tự thân, nó luôn mang trong mình một lời giải đáp về cuộc sống mai hậu, về niềm hy vọng phục sinh và ơn cứu độ. Vì thế, đây là một ơn gọi cao quý. Tuy nhiên, trong đời tu, có người cảm thấy hạnh phúc, lại có người cảm thấy bất an! Nguyên nhân tại sao? Tại đâu? Và tại ai?

BÀI 1: DẪN NHẬP

 

Cuộc đời của mỗi chúng ta là một hành trình đi về phía trước. Cuộc sống phía trước muôn hình vạn trạng, có nhiều thứ đòi ta phải chọn lựa để sinh tồn… Nếu ta chọn đúng thì có thể ta hành động đúng, còn nếu ta chọn sai thì không thể hành động đúng được. Có những chọn lựa làm cho nhân cách và uy tín của ta trở nên tốt; cũng có những lựa chọn làm cho nhân phẩm của ta đi xuống; lại có những lựa chọn dẫn đến sai xót không đáng kể; nhưng có những lựa chọn đem lại hậu quả xấu khôn lường. Chọn sai một nghề, có thể làm lại. Đi sai đường có thể quay đầu và chuyển hướng đúng… Nhưng chọn một lý tưởng, một quan điểm sai để tiến bước thì có khi cả cuộc đời và đến khi nhắm mắt xuôi tay ta hối hận cũng không hết.

 

Trong đời sống tâm linh, việc chọn lựa là rất quan trọng. Tại sao vậy? Thưa! Vì nó đụng tới tận căn, gốc rễ của vấn đề. Cũng vậy, việc chọn Chúa và đi theo Chúa là một lựa chọn căn bản của mọi lựa chọn khác. Khi đã chọn Chúa làm gia nghiệp, nền tảng, ta có nguồn hy vọng hướng Thiên qua các chọn lựa kế tiếp, bởi vì các chọn lựa tiếp theo đều được xây dựng trên nền tảng khai nguyên này. Do đó, như một sự thất bại thê thảm nếu mọi suy nghĩ, hành động không do lý tưởng trên khai sáng!

Như thế, được sống mãi mãi hay trầm luân muôn thủa là do thái độ và sự chọn lựa của chúng ta hiện nay.

 

Trong đời tu cũng vậy. Việc chọn Chúa làm lý tưởng, làm lẽ sống và cùng đích của chúng ta là điều tối ưu tiên, từ đó phát sinh ra những hệ quả hay lối sống mang tính đặc thù của những người sống đời thánh hiến.

 

Đời sống tu trì là một cuộc sống rất ý nghĩa, bởi vì tự thân, nó luôn mang trong mình một lời giải đáp về cuộc sống mai hậu, về niềm hy vọng phục sinh và ơn cứu độ. Vì thế, đây là một ơn gọi cao quý. Tuy nhiên, trong đời tu, có người cảm thấy hạnh phúc, lại có người cảm thấy bất an! Nguyên nhân tại sao? Tại đâu?  Và tại ai?

 

Để trả lời cho những câu hỏi này thật không dễ, bởi lẽ nó là những câu hỏi lớn mang tính vĩ mô của một đời người vốn có và tồn tại từ bao đời nay. Vì thế, những bài viết trong cuốn sách này sẽ không có tham vọng tầm nguyên, để rồi đi đến việc giải thích và đưa ra những kết luận hầu thỏa mãn sự hiếu tri cho câu hỏi “tại sao???”. Nhưng qua cuốn sách này, với sự khiêm tốn của một kẻ “tài thô, ý thiển”, tác giả muốn “hội bàn tròn”, hay nói đúng hơn là cùng với độc giả, những người sống đời thánh hiến, chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem động lực mình đi tu là gì? Và đâu là điều khiến cho những người sống đời tu được hạnh phúc hay bất an?

 

Như vậy, qua toàn bộ bài viết này, người viết trưng ra vai trò của Thần Khí Thiên Chúa tác động trên cuộc đời của những người sống đời tận hiến. Tuy nhiên, song song với sự tác động của Thần Khí Thiên Chúa, thì cũng có các dạng thần khí khác cùng lúc hoạt động trên cùng một hữu thể, đó là thần khí của ma quỷ và thần khí của con người. Mỗi thần khí đều có những sức mạnh riêng, và có những cách thức tác động trên đối tượng tiếp nhận khác nhau. Và cũng như một lẽ tất yếu, nếu ta chịu sự tác động của Thần Khí Thiên Chúa thì kết cục cuộc đời ta sẽ hạnh phúc. Còn ta chịu sự tác động của thần khí ma quỷ và thuận theo thần khí của con người thì sẽ dẫn đến bất hạnh và mất luôn ý nghĩ của cuộc đời, sứ vụ và ơn gọi mà ta đang tiếp bước.


1. Thần Khí (thần khí) là gì?

 

Thần khí là một nguồn lực vô hình, mắt thường không trông thấy như kiểu chúng ta nhìn thấy: người, đường, đồi núi, hay biển cả… Nó mang tính chất thiêng liêng và vượt lên trên không gian và thời gian, và như một sức mạnh tự thân có tính siêu phàm. Thần khí có thể tác động cả bên trong lẫn bên ngoài. Khi tác động vào nội lực hay ngoại tại của con người, nó có sức mạnh đẩy con người phải làm theo và có thể bị lệ thuộc hoàn toàn.

 

Thần Khí cũng được dùng để chỉ đặc biệt về hoạt động của Chúa Thánh Thần. Khi phân tích Thần được chỉ là Đấng Thiêng Liêng; Khí là hơi thở. Cựu Ứớc dùng từ Thần Khí để chỉ sự hoạt động của Thiên Chúa (x. St 1,2). Tân Ứớc cũng dùng từ này để chỉ riêng về Chúa Thánh Thần và các hoạt động của Người (x. Lc 4, 18)[1]. Người là “Spiritus”;“Spiritus Sanctus”. Thần Khí này ám chỉ đến sức mạnh biến đổi, thánh hóa của Chúa Thánh Thần, Người là Thần Khí sự thật, sự sống và tình yêu. Những ai được Thần Khí của Thiên Chúa chiếm hữu thì người đó trở nên đền thờ của Người, và sẽ làm được những điều kỳ diệu do Thần Khí Thiên Chúa thúc đẩy, tác động. 

Tuy nhiên, cũng có những dạng thần khí xấu như của ma quỷ hay của con người. Khi hiểu theo nghĩa này thì từ “thần khí” gợi liên tưởng đến một số ý nghĩa không tốt, vì từ này còn có những ý nghĩa khác như:

 

1) Vẻ mặt, nét mặt;

2) Khoái chí, thoả mãn;

3) Ra vẻ, cao ngạo, vênh vang (ta đây);

(4) Nghênh ngang…[2].

 

Như một hệ lụy, nếu bị thần khí của ma quỷ chiếm hữu, thì người đó bị lệ thuộc vào nó và làm những việc xấu do nó thúc đẩy. Còn thần khí của con người thì quy chiếu về mình và từ đó làm mọi chuyện theo chủ quan của mình nhằm thỏa mãn mình theo tính xác thịt.

 

Như vậy, trong cuộc sống, không thiếu những dạng thần khí, và không phải thần khí nào cũng tốt. Vì thế, phải phân định để để thấy được đâu là ý Chúa, đâu là do ma quỷ và đâu là chủ đích của con người. 

2. Phân định là gì? Và, phân định như thế nào?

 

2.1 Phân định là gì?

 

Trước khi nói đến phân định theo nghĩa siêu nghiệm, siêu linh…, ta nên nói qua về những phân định trong cuộc sống thường ngày của con người, để thấy được ngay trong đời sống tự nhiên, chúng ta cũng đã rất cần đến sự phân định, hầu qua đó, người thực hành sự phân định thấu cảm được những điều đang diễn ra là gì, như thế nào và phải ứng xử sao…?

 

Phân định trong cuộc sống tự nhiên

 

Khi nói đến phân định tự nhiên, người ta có thể hiểu một cách rất đơn giản là một sự phân biệt. Khi phân biệt, người ta phải chia mọi sự cách rạch ròi.[3] Hay trong cuốn từ điển “American college dictionnary”, định nghĩa như sau:

 

Phân định chính là việc: 1) “nhận thấy bằng mắt hoặc bằng một giác quan nào khác…; 2) phân biệt bằng trí tuệ, nhận ra sự khác biệt coi như tách biệt nhau; phân biệt”.[4]

 

Như vậy, nếu hiểu phân định trong đời sống thuần túy tự nhiên thì một người bình thường, ngang qua cuộc sống, họ có thể phân định được một số thực tại gắn với những sinh hoạt và diễn tiến ngang qua không gian và thời gian trong hiện tại hoặc viễn cảnh nơi tương lai như:

 

Nếu xét theo góc độ phẩm và lượng thì cần phải phân định giữa: tốt – xấu; thành công – thất bại; thuận – nghịch; thiện – ác…;

 

Hay qua trạng thái giữa: vui – buồn; sướng – khổ; hạnh phúc – bất an…;

 

Hoặc nơi giác quan giữa: cao – thấp; núi – biển; khô – cạn; trái – phải; trắng – đen; vàng – đỏ; xanh – tím…;

 

Qua khứu giác và vị giác: thơm – thối; mặn – nhạt; ngọt – bùi; cay – đắng…;

 

Như những gì đã phân tích, thì ngang qua việc phân định tự nhiên, nó giúp cho ta thấy, cảm, thấu và biết được thực tại của những thứ cần phân định theo nghĩa đen.

 

Còn khi phân định theo ý nghĩa Siêu Nhiên, tất nhiên nó không chỉ dừng lại theo nghĩa thực dụng, hiện sinh, mà đôi lúc, nó vượt ra xa, hay lên trên những thực tại trần thế để biểu cảm hay hướng con người đến một điều gì đó toàn thiện hơn cái đã có…, ta gọi nó là phân định thiêng liêng.

 

Phân định trong cuộc sống siêu nhiên

 

Khi nói đến phân định thiêng liêng, tức là một sự phân định mang tính Siêu Việt, thì thánh Phaolô chỉ ra sự cẩn trọng và nhắc nhở: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Theo lời răn dạy của thánh nhân, chúng ta hiểu được rằng: nếu muốn để sự phân định của chúng ta được diễn ra trong sự tương hợp của Thiên Ý, tức là để Ý Chúa được nên trọn thì người phân định phải luôn luôn thoát ra khỏi những gì là trần thế và phải thay đổi cách nhìn mới, không thể theo nhãn quan và trí tưởng thuần túy của con người!

 

Lúc khác, thánh Phaolô lên tiếng nhắc nhở cho những ai theo ý chủ quan và phóng chiếu ý mình thay ý Chúa, ngài nói:“Vì thế, anh em đừng hóa ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa. Chớ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới trụy lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí” (Ep 5,17 – 18).

 

Như thế, để sự phân định được tốt, người thực hành sự phân định cần siêng năng đón nhận ý Chúa nơi đời sống cầu nguyện, để nhờ đó, sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa chiếu dọi vào trong tâm trí, thấm vào trái tim và toát ra qua hành động của người phân định, để: “… anh em sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn” (Cl 1, 10).

 

2.2 Phân định Thần Khí (thần khí) như thế nào?

 

Khi nói đến phân định Thần Khí (thần khí), cha E. Malatesta, dòng Tên đã đưa ra định nghĩa:

“Qua từ ‘phân định Thần Khí (thần khí)’, người ta hiểu đó là tiến trình, qua đó, chúng ta xem xét, dưới ánh sáng của đức tin và trong đó tương hợp của đức ái, bản chất của những tâm trạng thiêng liêng mà chúng ta cảm thấy nơi chính mình và được người khác cảm nhận. Mục đích của việc xem xét ấy là xác định, trong chừng mực có thể được, đâu là những tâm trạng đưa dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa để phục vụ Người và tha nhân trong một sự toàn thiện lớn hơn, và đâu là những tâm trạng đưa đẩy chúng ta đi xa mục đích đó”.[5]

 

Chính Đức Giêsu, Ngài cũng nhắc nhở các môn đệ khi phân định cần phải biết được nguyên nhân căn bản, vì qua đó, nó giúp cho chúng ta biết được cái “gốc” nảy sinh vấn đề: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì họ biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt. Cây nào không sinh quả tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa. Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai”(Mt 7, 16-20).

 

Qua bản văn Kinh Thánh trên, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ phải tỉnh táo để không bị mắc lừa qua những lời lẽ văn hoa, chữ nghĩa, sáo rỗng, phỉnh bịp… Ngài căn dặn các ông phải cẩn trọng trước mọi vấn đề và buộc phải làm một cuộc trắc nghiệm để sự phân định không bị rơi vào tình trạng hồ đồ, nóng vội, chủ quan…

 

Còn theo thánh Phaolô, ngài phân biệt đâu là sự tác động của Thần Khí tốt và đâu là thần khí xấu. Theo ngài thì: Thần Khí Thiên Chúa sẽ làm tác sinh điều thiện hảo. Thần khí của ma quỷ hay của con người thì tác động và đẩy đưa người chịu ảnh hưởng đến chỗ xấu xa, trụy lạc, tội lỗi… Thánh nhân cũng đưa ra những đặc tính của Thần Khí Thiên Chúa, cũng như những đặc điểm của thần khí ma quỷ và con người, để dễ nhận diện, hầu giúp cho việc phân định đạt được kết quả tốt, thoát ra khỏi tình trạng mất tự do hoặc bị lệ thuộc, nô lệ, vụ luật…, ngài viết: “Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. Những việc do xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy […]. Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế. Những ai thuộc về Ðức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5, 16-24).

 

Sang cuối Thập Niên XIX, khi Thánh Công Đồng Vaticanô II xuất hiện, trong Hiến Chế Gaudium Et Spes”, các Nghị Phụ cũng nói đến hạn từ phân định Thần Khí (thần khí) trong thời đại hôm nay, ngõ hầu mở ra một cái nhìn phong phú mang tính “thời đại” để hợp với thời cuộc hơn.

 

Vì thế, các Nghị Phụ đã đưa ra những nhận định và nhấn mạnh đến tính cộng đồng, tức là biết nhận ra những “dấu chỉ thời đại”, qua việc nhạy bén, yêu mến và trung thành với việc lắng nghe tiếng Chúa trong các truyền thống, phong tục, tập quán, các nền văn hóa, cũng như các tôn giáo chân chính… của mọi dân tộc. Đàng khác, Hiến Chế còn xác nhận “Lương Tâm” của mỗi người cũng chính là nơi Thiên Chúa ngỏ lời cá biệt, riêng tư cách thân tình và chắc chắn nhất: “Tiếng nói của Lương Tâm luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác. Tiếng nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của chính con người: hãy làm điều này, hãy tránh điều kia”.[6]

 

Như vậy, Công Đồng xác định thêm rằng: nơi những gì tồn tại và phát triển gắn liền với không gian và thời gian nhất định, mà hệ quả của chúng không nghịch với đức tin của Giáo Hội, thì hẳn đó là một trong những cơ hội tốt cần khám phá và như một điều kiện thuận lợi giúp góp phần đưa chúng ta đến sự phân định đúng đắn và phong phú, hầu đáp ứng được những nhu cầu, tâm lý và sở thích của con người thời đại mà không sợ xa rời đức tin Công Giáo. Nhưng ngược lại, qua đó, nó làm cho đời sống đức tin của chúng ta được dồi dào, phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, để đạt được điều tốt lành trên, thì vai trò của“Lương Tâm” là điều tối quan trọng, bởi vì: qua tiếng nói “Lương Tâm”, người ta có thể nhận ra điều xấu và tốt; điều gì nên làm và nên chọn, cũng như điều gì không nên làm và chọn thì phải loại trừ. 

Như vậy, ta có thể hiểu một cách giản lược về việc phân định chính là: một hành vi nhận thức, phân biệt, phán đoán khi chính bản thân đối diện với một tình huống đặc thù, thời điểm nhất định, đối tượng cụ thể nào đó và đòi ta phải chọn lựa nên hay không nên; đón nhận hay khước từ; và, làm thế nào!

 

Người nắm giữ vai trò linh hướng cho cá nhân hay một nhóm người; đảm nhận trách nhiệm đồng hành cho một hoặc nhóm đối tượng cùng lý tưởng; nghề nghiệp…, thì cần phải có sự phân định rất khôn ngoan, sáng suốt để giúp cho chính bản thân và người (nhóm người) mà ta đang giúp vượt ra khỏi sự hỗn mang của tư tưởng hay hành vi, hầu đạt tới sự thống nhất xác hồn theo chiều hướng thuận.  

 

Tắt một lời: muốn đạt được một sự phân định tốt, phải lấy Chúa làm trung tâm, căn cốt, tất yếu và phải ngoan ngùy theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tác động đó được mặc định qua “Lương Tâm” chân chính; đồng thời cũng phải nhạy bén với các “dấu chỉ của thời đại”.

 

Được vậy, mới hy vọng có những hoa trái và hệ luận tốt, để sau này tiến tới việc phân định Thần Khí (thần khí) trong đời tu một cách khôn ngoan, hợp với Thiên Ý. 

3. Tại sao cần phải phân định Thần Khí (thần khí)?

 

Trong thực tế, có rất nhiều người cảm thấy hạnh phúc và vui tươi trên hành trình dâng hiến của mình, bởi lẽ, khi lựa chọn và sống ơn gọi này, họ bình an, khao khát sự thánh thiện từng ngày và được gần Chúa hơn để mong muốn vươn tới sự trọn lành trong đời tu. Những người này đã chọn Chúa là mục đích của cuộc đời.

 

Nhưng lại có những người cảm thấy bi đát, bất an và phải nín thở từng ngày để mong sao “qua cầu”; “lướt ván…”. Bởi vì, vẫn còn đó những người luôn theo ý chủ quan của mình nhằm hy vọng bước chân vào đời tu để được an nhàn, hay như một bước đệm để thỏa mãn ý riêng và mong đạt được những “mục đích tầm thường”; hay “rẻ tiền…”. Khi đạt được chức nọ, tước kia, họ coi đó như là điều “đương nhiên”, là một phần thưởng tất yếu trong quá trình xây dựng sự nghiệp. Như thế, hậu quả là: họ tự cho mình được “miễn nhiễm”; được biệt đãi trong một vỏ bọc bởi chức cao vọng trọng. Khi rơi vào tình trạng đó, đương sự dễ bị lãng quên một điều cần thiết là: đời tu chỉ có giá trị khi được mặc lấy Đức Kitô, Đấng đến để phục vụ, tự hủy hầu cứu chuộc nhân loại qua chính cái chết trên Thánh Giá.

 

Nếu ai đó đi tu và đã bám rễ nơi những thứ “hạ đẳng”; với quan niệm “ăn sổi ở thì”; hay một kiểu đi tu “tốc độ”, thì cuộc đời và lời loan báo của họ trở thành “tin buồn” thay cho “Tin Mừng”. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì Tin Mừng là chính Chúa và Giáo Huấn của Ngài chứ không phải một ai khác hay một lời nào đó của một vĩ nhân! Tuy nhiên, Đấng là nguồn cội của mọi điều thiện hảo; Đấng là Chân, Thiện, Mỹ thì họ lại không hề có kinh nghiệm sâu đậm về Ngài, vì thế, tự thân, họ không hề có điều họ đang muốn trao tặng. Như vậy, trong vòng luẩn quẩn đó, họ đành phủ lấp khoảng trống bằng cách nhắm mắt làm ngơ để giới thiệu chính họ và sự choáng ngợp của những thành công sẽ làm cho đương sự tự kiêu, ích kỷ, bảo thủ…

Nếu thật là thế, có lẽ không sớm thì muộn, họ trở thành người mất phương hướng. Và như một lẽ tất yếu, đường họ đi và đang dẫn người khác đi với họ sẽ đến “ngõ cụt”chứ không mở ra cánh cửa cứu độ. Và đương nhiên, đương sự khó có thể trở nên chứng nhân để trả lời cho những câu hỏi về niềm hy vọng của nhân loại! Những người này đã mất quá nhiều công lao và tìm mọi cách để mua cho thật nhiều những thứ không cần thiết, để rồi sau đó, họ đành phải bán đi thứ cần thiết nhất là mục đích của cuộc đời. Đây là một thực trạng đáng buồn và đang thường trực nơi tâm hồn rất nhiều người.

 

Khi rơi vào tình trạng như thế, đương sự cảm thấy xa lạ với sự nghịch lý của hạt lúa, của “Cây Sự Sống” là Thánh Giá Đức Kitô, họ có những lý lẽ do sự khôn ngoan trần tục thúc đẩy, họ sẵn sàng chọn công việc của Chúa chứ không phải chọn Chúa làm lẽ sống, gia nghiệp của cuộc đời. 

 

Tại sao lại có hai trạng thái đối lập nhau như vậy? Thiết nghĩ, tất cả đều do đương sự thuận theo, hướng chiều và đi theo Thần Khí tốt hay thần khí xấu! Khi tự do lựa chọn và quy chiếu cuộc đời cũng như hành động của mình theo Thần Khí (thần khí) nào thì sự hiện hữu, lối suy nghĩ, mọi hành vi của mình sẽ bị Thần Khí (thần khí) đó tác động cũng như thúc đẩy, và, như một lẽ tất yếu, khiến cho người đang tiếp bước trên lộ trình dâng hiến có thể được bình an, hạnh phúc hoặc ngược lại!

 

Như vậy, khi đứng trước một vấn đề nào đó, đòi hỏi đương sự phải tỉnh táo, khôn ngoan và can đảm cắt tỉa những gì không phù hợp với Tin Mừng. Người sống đời tu không thể quên trách nhiệm của mình là phải phân định (biện phân). Phân định để biết được điều đó nên hay không nên, được phép làm hay không được phép, nó có phù hợp với ơn gọi và thiên chức của mình hay không…! Trong đời tu không thể chấp nhận “dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt”; cũng không chấp nhận kiểu nhân danh ông nọ bà kia để làm “bình phong” cho hành vi xấu xa của mình, hầu “đánh lận con đen”, hòng lôi kéo người khác về phe mình, dẫu vẫn biết rằng đó là điều bất chính!

 

Tuy nhiên, đôi khi vì quá tin tưởng vào khả năng cá nhân, do lối suy nghĩ chủ quan dẫn đến tình trạng: thiên vị, bảo thủ, kiêu ngạo, cố chấp, thiển cận, hay bối rối, lo lắng thái quá, hoặc thờ ơ, từ đó dẫn đến những hành động và quyết định sai lầm.

 

Thật vậy, có những điều tốt, nhưng nó lại chỉ tốt với một người hay nhóm người, hoặc công việc, môi trường mang tính đặc thù nhất định, chứ không phải là phổ quát cho mọi người, mọi nơi và mọi thời.

 

Khi trải qua thực nghiệm của chính bản thân và rảo quanh để đưa mắt nhìn những sự phân định của người khác, chúng ta thấy: ngày nay, có nhiều tình huống rất đơn giản, nó chỉ có cách nhau một lằn ranh rất mong manh! Nếu ta không có thói quen tốt, mập mờ nguyên tắc và không vững vàng lập trường thì cuộc đời của chúng ta sẽ mất đi sự hạnh phúc mà lẽ ra chúng ta được tận hưởng. Thật vậy, nếu không nhạy bén với thực tiễn của xã hội hoặc cảm thức tâm linh, thì chúng ta rất dễ ngộ nhận. Chẳng hạn như: nửa ly sữa; chút mẩu bánh mì… thì bản chất nó vẫn là sữa và bánh mì, nhưng nếu nửa sự thật thì không phải luôn luôn là sự thật!

 

Câu chuyện Nguyên Tổ là một chứng minh: khi hai ông bà nghe theo lời dụ dỗ của ma quỷ, chúng chỉ cung cấp cho ông bà nửa sự thật và nói rằng: ông bà cứ ăn trái cấm đi, không sao cả, vì khi ăn vào, mắt của ông bà sẽ sáng ra. Ông bà đã thuận theo, và quả thực, khi trái cấm được đưa vào miệng, thì cũng là lúc mắt họ sáng ra và hậu quả là nhận thấy mình trần truồng chứ không phải là ngang bằng Thiên Chúa! (x. St 3, 1-7). Một sự ngộ nhận xót xa, dẫn đến hậu quả khôn lường!!!

 

Cũng thế, nếu không có khả năng phân định tốt, ta sẽ rơi vào tình trạng nhập nhằng, lúng túng và sẽ dễ dẫn đến tình trạng “gió chiều nào che chiều đó”; “ai sao tôi vậy”; “ai làm bậy, tôi cũng làm theo…”. Đây là những hệ quả của người chưa trưởng thành và thiếu lập trường, do không có khả năng phân định đúng – sai và họ không dựa trên tiêu chuẩn luân lý Kitô Giáo hay do Lương Tâm thúc đẩy. Những người đó, nhiều khi câu chuyện hay tình huống rất đơn giản, nhưng họ lại làm cho sự kiện, công việc trở nên phức tạp, rối ren do nhận thức bị mập mờ, thiếu chuẩn mực, dẫn đến tình trạng “tiến thoái lưỡng nan…”.Nhưng đôi khi có những công việc cần đến sự cẩn trọng, thì họ lại cho rằng: “Chuyện đó thường thôi, làm gì phải ầm ĩ”, nên có thái độ giảm khinh và không cần quan tâm…

 

Như vậy, nếu không có sự phân định hoặc phân định sai lạc, chúng ta rất dễ dẫn đến tình trạng “mù mờ” hay “hỗn mang” (x. St 1, 1- 28).

 

Muốn trở thành một người có khả năng phân định tốt, trước tiên phải do ân sủng của Thiên Chúa ban cho ai thì người đó được, chứ không phải hoàn toàn thủ đắc do quá trình nhận thức tri thức của con người theo kiểu từ chương. 

 

Hẳn chúng ta không thể chấp nhận nuôi chó dưới nước, hay nuôi cá trên bờ… Tuy nhiên, người không phân định đúng thì cũng sẽ có nguy cơ như chú khỉ. Chú khỉ con thấy mình được ở trên bờ, tưởng rằng những con cá mà nó trông thấy đang ở dưới nước là do bị đày ải, nên thương tâm, nó bèn tìm mọi cách vớt cá lên bờ để cho cá được hạnh phúc, ai ngờ con cá chết cách nhanh chóng vì không có môi trường tương hợp để sống.

 

Vậy, phân định Thần Khí (thần khí) là việc cần thiết, bởi vì nó như một điều kiện cần phải có để làm nên điều tốt hay xấu qua hành vi lựa chọn của chúng ta. Tuy nhiên, đây là việc làm khó, không phải là chuyện dễ như bao người đã lầm tưởng!

 (còn tiếp)

Jos. Vinc. Ngọc Biển