Dây xích từng trói giữ thánh Phêrô

Theo ghi chép, thánh Phêrô không ít lần chịu cảnh tù tội trong lúc rao giảng Lời Chúa, và xiềng xích giam cầm vị tông đồ của Chúa Giêsu vẫn được bảo quản đến ngày nay.

Tọa lạc ở quận Monti tuyệt đẹp của Rôma là Vương Cung Thánh Ðường mang tên San Pietro in Vincoli, có nghĩa là “thánh Phêrô bị xiềng”, cũng là nơi lưu giữ thánh tích quan trọng liên quan đến vị giáo hoàng đầu tiên của Công giáo.

Chứng tích của quá khứ

San Pietro in Vincoli được xây vào khoảng thế kỷ thứ 5. Trong quá trình trùng tu vào giữa thế kỷ thứ 20, các nhà khảo cổ học đã có cơ hội nghiên cứu lớp bên dưới của nhà thờ, và phát hiện tổng cộng đến 4 lớp mang dấu tích cổ đại. Lớp đầu tiên có niên đại từ cuối thế kỷ thứ 2 trước công nguyên. Ðến giữa thế kỷ thứ nhất, nơi này được thay thế bằng một dinh thự nguy nga hơn, nằm ở rìa phía bắc của cung điện hoàng đế La Mã Nero. Vẫn tiếp tục tồn tại sau khi triều đại sụp đổ, tòa nhà lại thay bộ mặt mới vào thế kỷ thứ 2 trước khi được cải tạo một lần nữa vào cuối thế kỷ thứ 3 với sảnh rộng dùng làm nơi cầu nguyện. Thậm chí trước khi xuất hiện nhà thờ được bảo tồn đến hiện nay đã có một nhà thờ khác, nếu dựa trên những dòng chữ được sao chép lại từ những tín hữu hành hương vào thời kỳ Trung Cổ.

Tuy nhiên, San Pietro in Vincoli được nổi tiếng đến nay nhờ vào một vật chứng có liên quan đến những ngày tháng thánh Phêrô chịu giam cầm. Thánh tích này là một sợi dây xích đơn, dài không đến 2m, với một đầu gắn vòng cố định, và hiện vẫn nằm bên trong chiếc hộp bằng thủy tinh bên dưới bàn thờ chính của Vương Cung Thánh Ðường. Vào thời Trung Cổ, sự hiện diện của thánh tích quan trọng đã biến San Pietro in Vincoli thành một trong những điểm hành hương quan trọng nhất tại Rôma. Tương truyền, có đến hai sợi dây xích khác nhau, và bằng cách nào đó chúng đã kết hợp làm một khi được đặt cạnh bên.

Theo một số sử liệu, thánh Phêrô bị giữ bằng hai sợi xích khi bị cầm tù ở Giêrusalem theo lệnh của vua miền Judea, Herod Agrippa (Cv,12). Hai sợi xích này đồng thời xuất hiện tại thành Rôma vào năm 439, và câu chuyện được diễn biến như sau: Vào năm đó, Ðức Giám mục Giêrusalem Juvenal đã trao lại bộ đôi thánh tích này cho Hoàng hậu Aelia Eudocia, vợ của Hoàng đế Ðông La Mã Theodosius II, trong thời gian bà ở Ðất Thánh. Hoàng hậu gởi một dây về Constantinople, nơi thánh tích được tôn kính trong nhà thờ Các Thánh Tông Ðồ (bị đế quốc Ottoman phá hủy vào năm 1461). Sợi còn lại được gởi cho con gái của bà là Licinia Eudoxia, đã kết hôn với Hoàng đế Valentinian III của đế chế Tây La Mã (khi đó đế quốc La Mã bị phân đôi).

Trong khi đó, một câu chuyện khác lại cho rằng sợi xích, hoặc có thể hai, được sử dụng để xiềng thánh tông đồ Phêrô tại Rôma trước ngày xử tử. Thánh tích được chuyển về phía đông và cuối cùng xuất hiện ở Constantinople hoặc Giêrusalem. Ðiểm chung là sau đó Hoàng hậu Eudoxia đã trao thánh tích cho Ðức Giáo Hoàng Leo I. Khi vị giáo hoàng xếp chúng với các sợi xích được dùng để gông xiềng thánh tông đồ Phêrô tại ngục tù Mamertine ở Rôma, hai sợi dây đã kết hợp với nhau làm một như hình dạng bây giờ.

Dấu ấn của nhiều đời giáo hoàng

San Pietro in Vincoli đã được dâng cho Giáo hội dưới thời Ðức Giáo Hoàng Sixtus III vào năm 439. Nơi này trải qua vài đợt trùng tu, trong số đó có công trình do Ðức Giáo Hoàng Adrian I đích thân điều phối. Từ năm 1471 đến 1503, Ðức Hồng y Della Rovere (sau này được bầu chọn, trở thành Ðức Giáo Hoàng Julius II) tiếp tục hoàn thiện các công trình tại đây. Mái vòm cổng trước được bổ sung vào năm 1475, kế đến là hành lang được dựng lên trong giai đoạn từ năm 1493 đến 1503. Ðến đầu thế kỷ 18, việc xây cất lại được tiếp tục và hầu như mỗi thế kỷ lại có một dự án trùng tu.

Bên cạnh dây xích thánh Phêrô, San Pietro in Vincoli còn được biết đến với các bích họa tuyệt đẹp như Miracle of the Chains (1706) của họa sĩ Giovanni Battista Parodi. Trong bức tranh, Ðức Giáo Hoàng Alexander đã trị bướu cổ cho thánh Balbina bằng cách dùng dây xích từng trói thánh Phêrô chạm vào phần cơ thể bệnh tật. Tuy nhiên, bức bích họa này không nổi tiếng bằng tác phẩm điêu khắc của Michelangelo có tên Moses, được hoàn tất vào năm 1515 với mục đích làm quần thể tượng đài trước mộ Ðức Giáo Hoàng Julius II. Các tác phẩm khác bao gồm hai bức tranh sơn dầu vẽ thánh Augustine và Margaret của họa sĩ Guercino, công trình kỷ niệm Ðức Hồng y Girolamo Agucchi.

Bên cạnh mộ phần của một số vị hồng y, vào năm 1876 các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nơi chôn cất của nhóm được cho là 7 chiến binh Do Thái, những người nổi dậy giành lấy Giêrusalem từ tay đế quốc Seleucid vào thế kỷ thứ hai trước công nguyên. Tuy nhiên, thông tin này vẫn chưa được kiểm chứng đến ngày nay.

LING LANG

Nguồn tin: Báo Công Giáo & Dân Tộc