I. NHIỆM THỂ CHÚA KITÔ BỊ XÂU XÉ
Theo Niên giám thống kê của Giáo Hội Công giáo 1997, số người tin vào Chúa Kitô trên toàn thế giới là 1.994.754.000 người. Trong thành phần Kitô hữu này, có 1.005.254.000công giáo[1], 989.500.000 tín hữu thuộc các Giáo Hội anh em như Chính Thống (khoảng 15 giáo hội đông phương), Tin Lành (luthéranisme, calvinisme, méthodisme, congrégationnalistes, presbytérianisme… cùng hàng trăm giáo hội khác) và Anh giáo.
Số liệu trên một mặt chứng tỏ sự phát triển liên tục của Kitô giáo suốt 20 thế kỷ qua: từ một nhóm nhỏ mười hai tông đồ tại Palestine lên đến gần 1/3 nhân loại trên toàn cầu. Nhưng mặt khác cũng bộc lộ sự phân hóa giữa những môn đệ của Chúa Kitô. Trong 10 thế kỷ đầu, không phải là không có vấn đề xung đột nội bộ, lạc giáo nhưng không có sự chia tay nghiêm trọng chính thức của một đa số Kitô hữu như thế. Sự phân ly trầm trọng này bắt đầu từ thế kỷ XI với anh em Chính Thống giáo Đông phương (1054), sau một cuộc xung đột kéo dài giữa Constantinople (trung tâm của một Kitô giáo mang nhiều đặc tính huyền nhiệm, chiêm niệm và thi vị) và Roma (biểu trưng cho một Kitô giới mang đậm sắc thái pháp lý, hoạt động và chính trị. Từ đó, người ta phân biệt Giáo Hội Tây phương, với thủ lãnh thiêng liêng là Đức Giáo hoàng, Giám mục Roma và 4 tòa Thượng Phụ Giáo chủ Đông phương: Constantinople, Alexandrie, Antioche và Jérusalem.
Sang thế kỷ XVI, là cuộc đại ly giáo với anh em Tin Lành: sắc chỉ Exurge Domine (15.06.1520) của Đức Giáo hoàng Lêô X lên án các lập trường của Luther. Cuộc chia tay với Anh giáo diễn ra năm 1534 mà tác nhân lịch sử là vua Henri VIII. Quốc hội Anh ban hành luật Quyền tối thượng: “Nhà vua là người lãnh đạo giáo hội Anh, có quyền thẩm phán các vấn đề thuộc linh, có quyền phong chức các phẩm trật, Tất cả tài sản của Giáo Hội Anh đều thuộc về nhà vua.”
Không chỉ xa rời nhau mà thôi, bi thảm hơn, đã có lúc những người con cùng một Cha trên trời này trở nên kẻ thù và sát hại lẫn nhau. Chẳng hạn như những cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa anh em Kitô hữu với nhau tại Đức, Pays-Bas, Bohême. Ở Pháp, từ 1562-1598, người ta tính có đến 8 cuộc “chiến tranh tôn giáo” giữa Công giáo và Tin Lành, với cuộc thảm sát tại Saint-Barthélemy gây tử vong cho 30.000 người, sang thế kỷ XVII lại thêm cuộc chiến kéo dài 30 năm (1618-1648). Tất nhiên, tham vọng hay quyền lợi chính trị của một số cá nhân cũng đan xen vào các nguyên do tôn giáo làm phát sinh các cuộc chiến tranh này ; nhưng phải nhìn nhận rằng viện cớ “Chống Cải Cách”, một số người Công giáo thời bấy giờ đã tìm cách triệt hạ Tin Lành bằng mọi phương tiện.
Giữa những tín hữu Công giáo và Tin Lành Việt Nam nói chung, thì chưa đến nỗi đổ máu như thế, nhưng thường chỉ dừng ở hiện tượng “khẩu chiến” mà thôi. Tuy nhiên, nếu như không có thái độ thù nghịch thì cũng khá dửng dưng, xa cách hay không có thiện cảm đối với nhau. Một trắc nghiệm nhỏ để xem ta có sống tương hợp với Tin Mừng chưa: Phản ứng của ta thế nào khi nghe anh em Tin Lành đề cập đến việc xưng hô với linh mục hay thờ kính ảnh tượng trong nhà thờ? Thái độ của tôi ra sao đối với vài anh chị em rời cộng đồng Công giáo mà gia nhập giáo hội Tin Lành?
Gần 2 tỷ người cùng công nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, nhưng họ lại thường tranh luận với nhau về chính Người; loan báo cùng một Tin Mừng, nhưng đôi khi lại chống báng lẫn nhau. Cùng tuyên xưng một kinh Tin Kính các Tông đồ, nhưng trong những đền thờ khác nhau. Cùng được thánh tẩy bởi một Phép Rửa, nhưng lại đối kháng với những Giáo Hội khác mình. Những thái độ phi Tin mừng kể trên là một sự chà đạp ước muốn và ý nguyện của Thầy Chí Thánh: “Xin cho tất cả nên một”. (Ga 17, 21). Một lầm lỗi chung nhưng người của mỗi bên đều thản nhiên “rửa tay” với cùng một ý thức: “Đó là lỗi của người khác”. Đó không chỉ là một sự phản bội đối với Đức Kitô và mà còn đối với những người nghèo đang tìm kiếm ánh sáng chân lý. Ngoài ra, sự chia rẽ giữa anh em Kitô hữu là một “scandale” đối với thế giới và cản trở công cuộc Phúc Âm hóa. Dưới sự tác động của Thánh Thần hòa giải, các Kitô hữu không thể làm ngơ trước sự phân hóa này, nếu muốn làm môn đệ trung thành với Đức Kitô.
II. TRỞ VỀ VỚI Ý NGUYỆN CỦA ĐỨC KITÔ
1. Những tông đồ của đối thoại đại kết
Linh mục Portal, Lord Halifax cùng Hồng y Mercier đã tổ chức các cuộc trao đổi tại Melines (Bỉ) từ 1921-1925, nhằm đối thoại với Giáo Hội Anh giáo. Năm 1925, Dom Lambert Beauduin thành lập Tu viện Hiệp nhất (Prieuré de l’Unité) ở Chevetogne thuộc nước Bỉ. Tại Pháp, nhờ sự thúc đẩy của cha Couturier, “đại tông đồ của sự hiệp nhất Kitô giáo”, Tuần lễ Cầu nguyện cho sự Hiệp nhất (18-25.01) gặt hái được sự thành công đáng kể ngay từ năm 1932. Linh mục này xác tín rằng sự hiệp nhất sẽ diễn ra vào thời gian và theo cách thức mà Chúa Kitô muốn. Tác phẩm Chrétiens désunis của cha Congar (nay là Hồng y), xuất bản năm 1937, được xem là hiến chương của phong trào đại kết trong Giáo Hội Công giáo.
Tương quan giữa anh em Kitô hữu sau 4 thế kỷ bị che khuất bởi bóng tối chia rẽ, nay Ánh sáng Tin Mừng lại lộ diện từ một trực giác chính của Đức Thánh Cha Gioan XXIII về Công đồng chung: giữa một thế giới đang bị xâu xé, chúng ta hãy cống hiến một tấm gương và sự giúp đỡ của một Kitô giáo yêu thương lẫn nhau và bắt đầu hiệp nhất.
Ngày 21.01.1959, ngài đã nói khi công bố triệu tập Công Đồng Vatican II: “Chúng ta sẽ không làm ra một vụ án lịch sử. Chúng ta sẽ không tìm hiểu xem ai sai ai đúng. Trách nhiệm được chia sẻ. Chúng ta sẽ chỉ nói: chúng ta hãy hòa giải với nhau”. Tái lập sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu là một trong những mục đích chính của Công Đồng thứ 21 này.
Trong một nghĩa cử mang tính ngôn sứ, Đức Gioan XXIII đã mời 80 quan sát viên ngoài Công giáo tham dự các khóa họp Công Đồng. Đến khóa họp IV, có đến 90 đại biểu của các Giáo Hội Chính Thống và Tin Lành. Vào dịp tiếp đón những người anh em này, ngài không ngồi trên ngai tòa mà chỉ ngồi vào một chiếc ghế bành đơn giản. Trong thái độ khiêm tốn, huynh đệ, ngài chú giải câu 20 của Thánh vịnh 68: “Chúa đáng chúc tụng mỗi ngày, vì chính Ngài đã mang lấy gánh nặng của chúng con”.
2. Phong trào đại kết
Phong trào đại kết được phát sinh dưới tác động của Chúa Thánh Thần, nhằm nỗ lực được phát triển từ hơn nửa thế kỷ nay giữa các Kitô hữu thuộc các Giáo Hội Tin lành, Công giáo, Chính thống – nhằm cổ võ sự thống nhất đức tin và hiệp thông giữa các cộng đồng Kitô giáo bị chia rẽ. Cần ghi nhận rằng khởi động ban đầu của phong trào này phát xuất từ phía anh em Tin Lành.
Trong cuộc Hội nghị quốc tế của các Hiệp hội Truyền giáo Tin Lành diễn ra 1910 tại Edimbourg (Écosse), một đại biểu của các Giáo Hội trẻ Cận Đông đã thốt lên với niềm xúc cảm: “Chúng tôi xin cám ơn quí vị đã gởi đến cho chúng tôi những nhà truyền giáo giúp chúng tôi nhận biết Đức Giêsu Kitô. Nhưng quí vị cũng mang đến cả sự phân cách và chia rẽ: những người này giảng thuyết cho chúng tôi về giáo hội Giám Lý, người kia thì Tin Lành Luther, kẻ nọ lại giảng về giáo hội congrégational hay épiscopal. Chúng tôi xin quí vị rao giảng cho chúng tôi Phúc Âm và hãy để cho chính Chúa Kitô, nhờ tác động của Thần Khí, khơi dậy từ các dân tộc chúng tôi, một Giáo Hội phù hợp với những đòi hỏi của Người cũng như phù hợp với tinh thần của giống nòi chúng tôi, tức là Giáo Hội Chúa Kitô tại Nhật Bản, Giáo Hội Chúa Kitô tại Trung Quốc. Làm thế nào để Giáo Hội Chúa Kitô được thoát khỏi các thứ “chủ nghĩa” (isme) mà quí vị sử dụng khi rao giảng Phúc Âm giữa chúng tôi” (Th.Rey Mermet, CROIRE Tom 3 – Vivre la foi avec concile Vatican II, tr. 348-349).
Tiếng kêu có tính cách ngôn sứ này đã tạo nên một âm vang mạnh mẽ nơi nhiều người Tin Lành. Từ đó dần dần hình thành hai phong trào cộng tác liên tín phái (interconfessionnelle): phong trào Sống và Hành Động (1925) cổ võ thực hành chứng từ Kitô giáo và phong trào Đức Tin và Hiến Chế (1927) nhắm đến công tác giáo lý học thuyết. Đến năm 1948, hai phong trào này kết hợp lại thành Hội đồng Đại kết các Giáo Hội (C.O.E). Hội đồng Đại kết các Giáo Hội này vừa mừng sinh nhật thứ 50 vào năm 1998.
Từ năm 1937, anh em Chính Thống giáo đã góp phần tích cực vào phong trào Đại kết khi tham gia hội nghị với hai phong trào tiền thân của Hội đồng Đại kết các Giáo Hội. Anh em Anh giáo đã và đang giữ một vai trò quan trọng trong cuộc đối thoại Đại kết, theo đường hướng của hội nghị Lambeth (1920): coi Kinh Thánh làm quy tắc, trung thành với Kinh Tin Kính các Tông đồ, chấp nhận hai bí tích của Tân ước. Còn phía Công giáo thì dấn thân chính thức vào phong trào đại kết từ thời Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, với hai sự kiện quan trọng.
Thứ nhất là việc thành lập Văn Phòng Hiệp nhất (1960) do Hồng y Bea và Willebrand nối tiếp nhau phụ trách. Văn phòng này cùng với các đại diện tại các quốc gia đã dấn thân vào hàng loạt cuộc đối thoại đào sâu với các Giáo Hội ngoài Công giáo và với Hội đồng Đại kết các Giáo Hội. Nhiều tiểu ban, nhóm làm việc chính thức hay không chính thức (chẳng hạn như Nhóm Dombes) đã đưa ra những Biên bản đồng ý chung về một số chủ đề quan trọng như Thánh Thể, các thừa tác vụ, Đức Maria (Tài liệu của nhóm Dombes mang tựa đề “Đức Maria trong ý định của Thiên Chúa và sự hiệp thông các Thánh” là công trình suy tư chung của 21 mục sư và 19 linh mục, công bố 1998).
Thứ hai là sự ra đời Sắc lệnh về Đại kết (Unitatis Redintegratio ). Ngày 21.11.1964 các nghị phụ Công Đồng đã nhất trí thông qua Sắc lệnh về Đại kết với 2137/2148 phiếu thuận. Qua Sắc lệnh này, Công đồng yêu cầu các Giáo Hội Kitô khác nhau trước hết, hãy quí trọng gia tài chung của mình, đó là Đức Kitô và Tin Mừng. Đừng tố cáo những Kitô hữu không công giáo về tội ly giáo. Công Đồng mong muốn những người Công giáo cũng nhận biết thiếu sót và trách nhiệm lịch sử của mình trong các cuộc ly giáo. Đó cũng là điều mà tuyên bố ngày 07.12.1962, của Đức Phaolô VI và Đức Thượng phụ Athénagoras nhấn mạnh.
III. NHỮNG NẺO ĐƯỜNG VÀ HOA TRÁI CỦA ĐỐI THOẠI ĐẠI KẾT
Từ năm 1965, Ủy ban làm việc hỗn hợp (Commission Mixte de Travail) giữa Giáo Hội Công giáo và Hội đồng Đại kết các Giáo Hội được thành lập. Ủy ban này nhóm họp mỗi năm một lần để tổng kết hoạt động cộng tác giữa Genève và Roma. Trong các dịp này, Ủy ban đưa ra những tuyên ngôn về một số vấn đề quan tâm chung, chẳng hạn như:
– Tính cách Công giáo và Tông truyền (1968)
– Chứng từ chung và nhiệt tình tiêu cực (1970)
– Chứng từ chung của các Kitô hữu (1980)
– Trật tự chân lý Đức tin (1990)
– Giáo Hội diạ phương và phổ quát (1990)
Tiếp bước các vị tiền nhiệm trên con đường Đại kết, năm 1995, Đức Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp Ut Unum Sint về dấn thân Đại kết. Qua đó, chúng ta ghi nhận được những kết quả của cuộc đối thoại Đại kết kể từ công đồng Vatican II đến nay:
– Tái lập tình huynh đệ.
– Liên đới trong hoạt động phục vụ con người.
– Tập chú vào Lời Chúa và phượng tự.
– Đánh giá cao những giá trị thực sự nơi các Giáo Hội khác. Cần lưu ý rằng những gì được Chúa Thánh Thần thực hiện nơi những anh em chia cách với chúng ta cũng góp phần xây dựng Giáo Hội chúng ta.
– Sự tiến triển trong hiệp thông giữa Kitô hữu thuộc các Giáo Hội khác nhau. Tương quan và các cuộc đối thoại thần học mà các Kitô hữu thực hiện giúp cho họ ý thức hơn về những dữ kiện đức tin mà các Kitô hữu có chung với nhau. Đồng thời chứng tỏ sự tìm kiếm hiệp nhất giữa các Kitô hữu không chỉ là một hành động tùy thích mà còn là một đòi hỏi phát sinh từ bản chất của công đồng Kitô giáo.
– Thắt chặt hơn quan hệ đối thoại với các Giáo Hội Đông phương sau nhiều thế kỷ tương quan căng thẳng.
– Nối lại quan hệ với Thượng phụ giáo chủ Chính Thống đại kết, thiết lập cuộc đối thoại về thần học giữa Giáo Hội Công giáo và các Giáo Hội có liên hệ về giáo luật với tòa Thượng phụ giáo chủ Constantinople.
– Đối thoại như một cuộc kiểm điểm lương tâm. Nhận biết điều kiện tội nhân của mình là một đặc tính của tinh thần của đối thoại đại kết.
– Đối thoại để giải quyết những bất đồng. Tình yêu chân lý là chiều kích sâu xa nhất của việc tìm kiếm sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu.
– Tương quan giữa các Kitô hữu không chỉ nhắm đến sự hiểu biết lẫn nhau, cầu nguyện chung và đối thoại. Tương quan này còn dự kiến và đòi hỏi ngay từ bây giờ tất cả những sự cộng tác thực hành khả thi trên nhiều mức độ: mục vụ, văn hoá, xã hội cũng như chứng tá về sứ điệp Tin Mừng (Jean Paul II, Ut Unum Sint , số 40).
Một sự kiện lịch sử vừa diễn ra vào ngày 31.10 .1999 tại Ausbourg (Đức), sự kiện đáng cho mọi Kitô hữu lưu tâm và cảm tạ Cha về hoa trái của Chúa Thánh Thần trên chặng đường đại kết. Đó là Tuyên ngôn chung giữa Công giáo và anh em Tin Lành Luther về những chân lý nền tảng của học thuyết “Công chính hóa”, được ký bởi đại diện của hai Giáo Hội: Hồng y Edward Cassidy (chủ tịch Hội Đồng Giáo hoàng Cổ võ sự Hiệp nhất Kitô hữu) và Giám mục Giáo Hội Luther, Christian Krase (đại diện Liên Hiệp Tin Lành Luther Thế giới). Tưởng cũng nên biết ngày 31.10.1517 là thời điểm mà Luther niêm yết 95 Luận đề tại lâu đài Wittenberg. Tuyên ngôn chung này đóng một dấu ấn quan trọng sau một cuộc tranh luận kéo dài 469 năm giữa hai anh em cùng một gia đình Kitô hữu. Thật là ý nghĩa khi tuyên ngôn về “Công chính hóa” này được ký kết tại Ausbourg , là nơi mà các hoàng thân ủng hộ Luther trình cho hoàng đế Charles Quint bản “Tuyên Tín Ausbourg”, tức là bản tham chiếu về đức tin của các Giáo Hội Tin Lành. Có thể cô đọng nội dung chính của tuyên ngôn này nơi quan điểm cơ bản sau đây: chỉ có Đức Tin mới mang lại ơn cứu độ, nhưng đức tin được thể hiện bởi Đức Ái.
Chúng ta tạm dừng bài tìm hiểu về đối thoại đại kết với nhận định của Jean Delumeau, một nhận định đáng cho mỗi người Kitô hữu suy nghĩ và hành động cho công cuộc đối thoại Đại kết, “một con đường khó khăn, nhưng chứa chan niềm vui”: “Tôi không ngần ngại tuyên bố: ngày nay, chúng ta phải là Kitô hữu, trước khi là công giáo, Tin lành hay Chính thống. Đối với tôi, tương lai Kitô giáo để đạt tới thành công, dù chỉ là một phần, phải nhờ Đại kết. Không có Đại kết, Kitô giáo không có tính ‘đáng tin’” (Jean DELUMEAU, “Une crise inédite”, trong le Monde, 5.6.1979).
Lời nguyện của Đức Kitô cần được tiếp tục kêu cầu và thể hiện nơi mỗi Kitô hữu, đặc biệt trong Năm Thánh này: “Lạy Cha, như Cha ở trong con và con ở trong Cha, xin cho họ cũng được ở trong chúng ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai con… Xin cho họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (Ga 17, 21.13).
Lm. Tâm Giao
[1] Tính đến 2011, có 1 tỉ 214 triệu người Công giáo