20 Đoạn Văn Kinh Thánh Về Lòng Thương Xót

Thiên Chúa là Đấng giàu lòng khoan dung, thương xót, Ngài đến không phải để luận tội nhưng để vạch ra cho chúng ta thấy thân phận yếu hèn, tội lỗi của mình mà khiêm tốn thống hối, mà hoán cải để được ơn tha thứ.
 tim-hieu-ve-nguon-goc-long-chua-thuong-xot

Chủ đề 01: Kêu gọi Lêvi (Lc 5, 27-32)

27 Sau đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông : “Anh hãy theo tôi !” 28 Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người.29 Ông Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những người khác cùng ăn với các ngài. 30 Những người Pha-ri-sêu và những kinh sư thuộc nhóm của họ mới lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giê-su rằng : “Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi ?” 31 Đức Giê-su đáp lại họ rằng : “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. 32 Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.”

Suy niệm:

Trong hầu hết các nền văn hóa hiện nay trên thế giới, bữa ăn là một nghi lễ, một thời điểm thuận lợi để trao đổi, một cơ hội để thắt chặt tình thân hữu. Chính vì thế mà người ta thường chia giờ giấc theo các bữa ăn , bữa ăn là giờ duy nhất trong ngày mà mọi thành viên trong gia đình có mặt bên nhau, là biểu trưng cho sự hợp nhất. Do đó, bữa ăn là giờ linh thiêng trong  đời sống con người.

Bữa ăn là dấu chỉ của sự hiệp nhất nên thời xa xưa, thỏa ước giữa các bộ lạc cũng được ký kết trong bữa tiệc. Ngồi đồng bàn với nhau có nghĩa là chấp nhận chia sẻ với nhau, chấp nhận tình thân hữu với nhau.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy được ý nghĩa nổi bật của bữa ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu.

Trở lại với câu chuyện Chúa kêu gọi ông Lêvi. Chúa đã kêu gọi Lêvi : “Anh hãy theo tôi !”, ông không chần chừ mà đứng dậy mau mắn theo Người. Ông đã nắm chặt lấy cơ hội, không do dự, Ông quyết định làm lại cuộc đời… Ông tổ chức một bữa tiệc lớn mời Chúa Giêsu và các bạn bè của ông là những người bị xếp vào loại hèn mạt, tới gặp Chúa Giêsu cùng thân bằng quyến thuộc đến  chung chia niềm vui và như nói lên quyết định quan trọng của mình, đồng thời cũng để từ giã họ mà đi theo Chúa.

Trong bữa tiệc vui này, Chúa Giêsu đã đồng bàn với những người thu thuế, bạn của ông Lêvi mà vào thời bấy giờ họ bị coi là người tội lỗi, bất lương, vì khi làm nghề thu thuế thì khó tránh khỏi gian tham, bóc lột, đút lót, hối lộ, lem nhem về tiền bạc nên bị mọi người oán ghét, ác cảm và bị đẩy xa bên lề xã hội. Ngài đồng bàn với họ là muốn chia sẻ, muốn nói lên tính thân thiện của Người với họ, ngồi đồng bàn với người tội lỗi, với mọi hạng người, Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta thấy bộ mặt của Thiên Chúa nhân hậu luôn hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, một Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của con người và muốn đi vào kết hợp thâm sâu với con người.

Qua những trình thuật trong Tin Mừng , chúng ta thấy Chúa Giêsu tìm dịp để đến với tội nhân, Người đồng bàn với họ, Người lân la trò chuyện với họ để giúp họ vươn lên , Ngài tạo cơ hội để giúp họ làm lại cuộc đời.

Nhóm kinh sư và Pharisiêu  thấy thái độ của Chúa như thế thì bực tức và tỏ ra bất mãn, họ trách cứ Chúa: “Sao Ông ấy lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?” nhưng Chúa Giêsu trả lời thật đơn giản, thích đáng: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau yếu mới cần …”. Thật vậy, người khỏe mạnh cần gì đến thầy thuốc, bác sĩ! Chỉ người bệnh hoạn, đau ốm , những người như ông Lêvi và các bạn hữu của ông mới là người cần Chúa hơn hết.

Thiên Chúa là Đấng giàu lòng khoan dung, thương xót, Ngài đến không phải để luận tội nhưng để vạch ra cho chúng ta thấy thân phận yếu hèn, tội lổi của mình mà khiêm tốn thống hối,  mà hoán cải để được ơn tha thứ.

Mùa chay là mùa sám hối, mà sám hối không chỉ có nghĩa là trở về với Chúa mà còn là giao hòa với tha nhân nữa. Xin Chúa cho chúng con sức mạnh nội lực để chúng con can đảm mau mắn đứng dậy trở về với Chúa trong kinh nguyện, sám hối và điều chỉnh lại quan hệ của chúng con với tha nhân, càng sống quảng đại, càng trao ban nhưng không, chúng con càng cảm nhận được ơn nhưng không của Thiên Chúa.

===============

Chủ đề 02: Phải có lòng nhân từ (Lc 6, 36-38)

36 “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. 37 Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. 38 Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”

” Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì  anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì  anh em đong bằng đấu nào ,thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”

SUY NIỆM:

Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Sử Luca đặt vào trọng tâm của một chuỗi bài giáo huấn của Chúa Giêsu. Sau khi Ngài nói về các mối phúc và mối hoạ, là một bài giảng về lòng yêu thương với anh em đồng loại , đặc biệt là đối với kẻ thù. Đến câu 36,37,38, Thánh Sử như muốn tóm kết bài giảng yêu thương ấy bằng một câu trả lời gọn ghẽ, chính xác về gương lòng nhânvà hậu quả của việc xét đoán anh em mình.

” Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” ( c 36 ). Chúa Giêsu không nói về mình nhưng Ngài chỉ cho các môn đệ một Đấng đầy lòng nhân hậu. Đấng ấy chính là ” Cha anh em”. Ở đây Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa là ” Cha anh em”, khác với Tin Mưng của Thánh Gioan “Cha Ta, Cha Tôi…” ý muốn nhấn mạnh rằng: Cha nào , thì  con phải như thế. Tục ngữ Việt Nam ta có câu:” Con nhà tông, không giống lông thì cũng giống cánh”. Thiên Chúa lúc này không phải là Đấng Siêu việt, Đấng ở trên cao, cách biệt chúng ta ngàn trùng nhưng là Người Cha nhân từ. Mối tương quan cha con sâu đậm được nhắc ở đây duy chỉ mục đích: hãy bắt chước Cha anh em ( x Mt 5,48 ).

Trong câu 37, chúng ta thấy Chúa Giêsu dùng 2 từ ” đừng” : “Đừng xét đoán…Đừng lên án” như muốn nhấn mạnh: Anh em chớ có dại dột mà làm điều ấy. Đây là lời cảnh cáo chứ không còn là lời khuyên bảo nhắc nhở như trong câu 36 nữa vì chính Thiên Chúa sẽ đặt lên cán cân cho thăng bằng: Nếu con xét đoán người khác, thì  đừng trách: Tại sao Chúa lại tính toán, chi li với con?. Nếu con lên án người khác thì đừng trách Ta sao lại nặng tay, trừng phạt nghiêm khắc trong cách đối xử với con?

Nhiều khi trong đời sống chung, chúng ta thường hay mắc phải điều này. Chúng ta nhận xét, phê bình, đánh giá và thậm chí kết tội người khác theo cái nhìn chủ quan. Cùng một sự kiện xảy ra với người mà ta thân thiện, thì ta cho rằng: Chẳng sao đâu, đó chỉ là do lầm lỗi. Còn nếu việc đó xảy ra với người , chúng ta thù ghét, thì lại bảo: Tội đó thật đáng chết, phải trừng phạt đích đáng để làm gương. Nhiều khi chúng ta đóng vai quan toà để kết án người khác mà quên mất cái đà trong mắt mình. Chúng ta quên rằng chỗ đứng của chúng ta là: tội nhân và chúng ta thường ngồi nhầm ghế quan toà khi xét xử người khác. Chúng ta quên mất Thiên Chúa và chỉ có Ngài là Vị Thẩm phán chí tôn, công thẳng. Ngài sẽ xét xử chúng ta theo như công việc chúng ta đã làm cho người anh chị em.

” Hãy tha thứ… sẽ được thứ tha. Hãy cho…sẽ được nhận lại”. Và chính Thiên Chúa là người trả lại những gì chúng ta đã làm cho Ngài. Ngài trả lại gấp trăm, gấp vạn những điều chúng ta làm  cho người anh em bé mọn, nghèo khổ. Thiên Chúa giàu lòng quảng đại, Ngài cho chúng ta gấp ngàn lần điều chúng ta cầu xin hay nghĩ tới. Ngài là người Cha của chúng ta.

Trong câu 38, Thánh sử dùng một hành vi tượng trưng để minh hoạ cho việc Thiên Chúa đối xử với những ai yêu mến và tuân giữ lời Ngài “Ngài sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng, đã dằn đã lắc và đầy tràn…” Chúng ta thấy cái đấu của Thiên Chúa không ? Không những đong đủ, mà còn dằn xuống cho được nhiều hơn, còn lắc qua lắc lại để không còn một chỗ trống, khe hở nào và đầy tràn: đã đầy, còn tràn ra ngoài nữa. Ý nói: tình thương bao la, lòng quảng đại vô biên của Thiên Chúa đối với con người. Đâu là lý do Thiên Chúa đối xử với chúng ta như vậy: ” Vì  anh em đong bằng đấu nào, Thiên Chúa sẽ đong lại bằng đấu ấy”. Một lần nữa, chúng ta lại thấy sự công thẳng của Thiên Chúa trong ngày sau hết được mô tả ở đây: Ai sống sao, Ta sẽ trả cho như vậy.

Bài Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến ngày phán xét chung thẩm trong Tin Mừng tuần qua: Mt 25, 31-46. Lúc đó, Thiên Chúa cứ theo những hành động bác ái ta đã đối xử với anh em mà thưởng phạt tuỳ theo mỗi người.

Lạy Chúa, khi còn sống, chúng con đã được Chúa cho biết bao cơ hội để sống tốt vơi Chúa , với anh em, nhưng nhiều khi chúng con ơ hờ, xao lãng vì cho rằng: tôi còn trẻ, còn khoẻ… đợi đến lúc bệnh, già lão hay sắp chết ăn năn còn kịp. “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu thoát”. Lời nhắc nhở này thúc giục chúng con biết nắm lấy cơ hội vì chẳng biết ngày nào Chúa đến gõ cửa lòng mình để quay trở về vơí Chúa, với anh em bằng chính đời sống yêu thương, bác ái trong tương quan từng ngày của chúng con.

==============

Chủ đề 03: Cho con trai bà góa thành Na-in sống lại (Lc 7,11-17)

11 Sau đó, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. 12 Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. 13 Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói : “Bà đừng khóc nữa !” 14 Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói : “Này người thanh niên, tôi bảo anh : hãy trỗi dậy !” 15 Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. 16 Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng : “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. 17 Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.

SUY NIỆM:

Ý Nghĩa Của Cuộc Sống

Trong cuộc sống công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã chứng kiến nhiều cái chết cũng như tham dự nhiều đám tang. Nhưng việc Ngài làm cho kẻ chết sống lại được Tin Mừng ghi lại không quá ba lần: một em bé gái con của vị kỳ mục trong dân; Lazarô em trai của Marta và Maria; người thanh niên con của bà góa thành Naim. Cả ba trường hợp chỉ là hồi sinh, chứ không phải là phục sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của những người này chỉ kéo dài được thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng trở về với bụi đất.

Chúa Giêsu đã không đến để làm cho con người được trường sinh bất tử ở cõi đời này, đúng hơn, Ngài đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cửu thì điều kiện tiên quyết là con người phải kinh qua cái chết. Chết vốn là thành phần của cuộc sống và là một trong những chân lý nền tảng nhất mà Chúa Giêsu đến nhắc nhở cho con người. Mang lấy thân phận con người là chấp nhận đi vào cái chết. Chính Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi số phận ấy. Thánh Phaolô đã nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với cái chết: “Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá”. Ðón nhận cái chết và đi vào cõi chết như thế nào để cuộc sống có ý nghĩa, đó là điều Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho con người khi đi vào cái chết.

Một trong những cái chết vô nghĩa và do đó cũng chối bỏ ý nghĩa cuộc sống, đó là tự tước đoạt sự sống của mình. Những cái chết như thế là lời tự thú rằng cuộc sống không có, cuộc sống không còn ý nghĩa và như vậy không còn đáng sống. Jean Paul Sartre, người phát ngôn của cả thế hệ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, đã viết trong tác phẩm “Buồn Nôn”: “Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ngồi đây ăn uống là để bảo tồn sự quí giá của chúng ta, nhưng kỳ thực, không có gì, tuyệt đối không có lý do gì để sống cả”.

Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết. Ðón nhận cái chết, Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống sung mãn, Ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa và đáng sống. Ðón nhận cái chết như ngõ đón vào vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy điểm đến và vinh quang đích thực, đó là sự sống vĩnh cửu. Ngài đã vâng phục cho đến chết. Vâng phục của Ngài là vâng phục trong tin tưởng, phó thác, trong khiêm tốn và yêu thương; đó là điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và làm cho cuộc sống trở thành đáng sống.

Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta niềm tin, can đảm và vui tươi để biết đón nhận và sống từng giây phút hiện tại một cách sung mãn, để tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.

=============

Chủ đề 04: Người phụ nữ được tha thứ vì yêu mến nhiều (Lc 7, 36-50)

36 Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn. 37 Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. 38 Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên. 39 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng : “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào : một người tội lỗi !” 40 Đức Giê-su lên tiếng bảo ông : “Này ông Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông !” Ông ấy thưa : “Dạ, xin Thầy cứ nói.” 41 Đức Giê-su nói : “Một chủ nợ kia có hai con nợ : một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. 42 Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn ?” 43 Ông Si-môn đáp : “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn.” Đức Giê-su bảo : “Ông xét đúng lắm.”

44 Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn : “Ông thấy người phụ nữ này chứ ? Tôi vào nhà ông : nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. 45 Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. 46 Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. 47 Vì thế, tôi nói cho ông hay : tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.” 48 Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ : “Tội của chị đã được tha rồi.” 49 Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng : “Ông này là ai mà lại tha được tội ?” 50 Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ : “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an.”

SUY NIỆM:

Lòng Sám Hối

Tin Mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa; phiên tòa này không có luật sư biện hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.

Có được bình an trong tâm hồn là điều quí giá nhất Chúa Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Lời đầu tiên của Ngài khi bắt đầu sứ vụ công khai là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Ngài đến là để khơi dậy lòng sám hối của con người; Ngài đến là để hòa giải tội nhân với Thiên Chúa. Cái chết của Ngài trên Thập giá không phải là cái chết của nhà cách mạng hay chính trị gia, mà thiết yếu là để đền bù tội lỗi con người.

Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Chúa Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau: “Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều”. Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.

Lịch sử Giáo Hội được tô điểm bằng lòng sám hối thể hiện qua tình mến. Cuộc đời của bất cứ vị thánh nào cũng đều bắt đầu bằng lòng sám hối, nghĩa là ý thức sâu xa về tội lỗi của mình. Nhưng sám hối không chỉ là ý thức về tội lỗi của mình. Có lẽ không ai ý thức được hành động phản bội của mình cho bằng Giuđa, nhưng ý thức ấy chưa hẳn là sám hối. Phêrô cũng đã chối Thầy, nhưng nơi ngài lòng sám hối không chỉ dừng lại ở ý thức tội lỗi, nhưng đã biến thành tình yêu thương; Phêrô đã nói lên lòng sám hối bằng ba lần thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa”.

Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất phát từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương.

Nguyện xin Chúa nung nấu tâm tình sám hối đích thực nơi chúng ta và ban cho chúng ta niềm an bình nội tâm, để chúng ta cũng biết chia sẻ niềm an bình ấy với mọi người bằng cảm thông, tha thứ, và những thể hiện của bác ái.

==============

Chủ đề 05: Dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10,29-37)

29 Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng : “Nhưng ai là người thân cận của tôi ?” 30 Đức Giê-su đáp : “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. 32 Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33 Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. 34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. 35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói : “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.” 36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” 37 Người thông luật trả lời : “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”

SUY NIỆM:

Chúng ta đang đọc Tin Mừng Luca với chủ đề Đức Giêsu lên Giê-ru-sa-lem ở chương 10. Giê-ru-sa-lem là nơi Ngài phải đến và chết ở đó như lời tiên báo: một tiên tri không chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem. Và trên đường đi Ngài dạy dỗ các môn đệ nhiều điều. Hôm nay, bài Tin Mừng nói về đề tài “Điều răn lớn” là điều răn quan trọng và là tinh hoa của luật Môsê… và cũng là điều Đức Giêsu muốn truyền đạt cho những ai muốn theo Ngài.

Mở đầu bài Tin Mừng là câu hỏi của một vị luật sĩ. Không biết vì lý do nào khiến ngươì hỏi Chúa Giêsu một vấn đề mà lẽ ra ông phải thông suốt : ” Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời ?” Chúa Giêsu trả lời bằng hai câu hỏi : ” Luật viết gì ? ông đọc thế nào ?” (c.26) Chúa Giêsu muốn chính ông phải trả lời về câu hỏi ông đặt ra dựa trên luật mà ông đã nắm vững. Ở câu 27, ta thấy ông rất thuộc luật và Chúa Giêsu đã không phải trả lời hoặc sửa đổi, nhấn mạnh ở điểm nào cả :

” Hãy yêu Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn”( 27a) nghĩa là yêu Thiên Chúa với trọn vẹn con người gồm thân xác và linh hồn, tâm tư, trí lực. Nói tóm lại : hãy yêu Ngài với những gì bạn Có và bạn Là. Bên cạnh đó ” hãy yêu người thân cận như chính mình” ( 27b) nghĩa là hãy quí trọng người khác như thân thể mình vậy. Ông luật sĩ trả lời vanh vách, không ngập ngừng hay lúng túng đến nỗi Chúa Giêsu phải khen ông “Ông trả lời đúng lắm, và Ngài thêm một mệnh lệnh ” cứ làm như vậy sẽ được sống” ( c.28).

Tiếp sau đó là dụ ngôn người Samaria nhân hậu. Ta thấy thánh sử Luca giới thiệu bằng một mệnh đề nói lên lý do vì sao Chúa Giêsu lại dùng dụ ngôn : “Ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý… Ai là người thân cận của tôi?” ( c.29). Đây là cách giảng dạy thông thường của Chúa Giêsu khi có một nguyên nhân thúc đẩy để Ngài nói lên một vấn đề, đúng hơn là một bài giáo huấn. Trong luật nói : Người thân cận. Ở đây ông luật sĩ đựơc Chúa khen, nên ông tưởng mình đã đi đúng đường. với tính tự cao tự mãn bộc lộ rằng : Mình có lý. Chúa Giêsu muốn ông xác định lại vấn đề ông hỏi và dẫn ông đi vào cái nhìn của Ngài về ” người thân cận” qua dụ ngôn. Ngài mở lời : Có một người từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô … rơi vào tay kẻ cướp, bị trọng thương, mất hết  của cải. Và kìa  có thầy Tư tế, thầy Lêvi đi qua đó, nhưng cả 2 ông đều tránh sang một bên. Lý do đơn giản : sợ ô uế. Một hình thức giữ luật vì luật. Họ sợ ô uế đến nỗi : thà để một con người chết đi, hy sinh vì luật. Luật đã khiến họ ra mù quáng ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân.

Chúa Giêsu đưa ra tiếp một hình ảnh người Samaria. Theo quan niệm Do Thái giáo, người Do Thái không tiếp xúc với người Samaria vì cho họ là dân ngoại. Nhưng ở đây, chính người ngoại này đã dừng lại. Cúi xuống băng bó vết thương và vực người bị thương lên lưng lừa, đưa về quán trọ. Thánh sử nói rõ : ông ta làm vì lòng thương ( x.c 33). Chẳng những ông ấy băng bó rồi còn trao cho chủ quán tiền chữa chạy, nếu thiếu, trên đường về chính ông là người trả lại số tiền thiếu đó. ( X.c.35). Một hành vi cao thượng. Người Samaria này không nghĩ đến bản thân : túi tiền bị hao hụt, mất thời giờ, lỡ cơ hội vì chậm trể hoặc có nguy cơ chính mình sẽ bị cướp lột ngay trên quãng đướng vắng vẻ này. Hình như tình thương che phủ sợ hãi. Ông quên hết những điều đó mà chỉ chuyên chú một điều : chạy chữa cho nạn nhân.

Một dụ ngôn thật ứng dụng cho đời sống. Chúa Giêsu có biệt tài hướng dẫn những người thành tâm thiện chí nhận ra đường lối của Thiên Chúa. Ngài xoay lại câu hỏi của ông luật sĩ : ai là người thân cận của tôi thì nay sẽ là :ai đã tỏ ra là người thân cận ?…( c.36). Thật vậy, nhiều khi chúng ta đòi hỏi người khác phải trở thành ” thân cận” của mình, mà ta quên rằng : chính chúng ta phải là ” người thận cận” cho anh em. Người luật sĩ đã nhận ra vấn đề và trả lời: Người thân cận là người đã thực thi lòng thương xót với anh em đồng loại ( x.c.37). Và Chúa Giêsu lại kết luận bằng cách nhắc lại một lần nữa mệnh lệnh của Ngài ” Hãy đi và làm như vậy” . Ông đã hiểu giờ chỉ còn thực hành mà thôi.

Trong cuộc sống hiện tại, có lẽ mỗi người không ít thì nhiều rất e dè khi giúp đỡ người khác, nhất là người đang lâm nạn, bởi vì “đầu không phải, phải tai” và có khi chính mình phải lãnh hậu quả do người khác gây ra chỉ vì lòng bác ái của mình. Nhưng chúng ta cũng đừng vịn vào cớ đó mà bàng quan trước đau khổ của người anh em, như thầy Tư tế và thầy Lêvi xưa. Lòng bác ái không có ranh giới. nó phủ nhận mọi lý do ngay cả lỗi lầm, thiếu sót.

Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa đã nêu gương cho chúng con học đòi bằng cái chết trên cây thập giá, bằng tấm bánh Thánh Thể nhỏ bé chỉ muốn ở lại với chúng con và cứu độ chúng con. Xin cho chúng con có được tâm tình của Chúa để đáp lại phần nào lòng Chúa yêu thương chúng con, qua những người anh em khốn khổ. Amen.

==============

Chủ đề 06: Dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15, 1-7)

1 Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau : “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” 3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này : 4 “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? 5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.’ 7 Vậy, tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

SUY NIỆM:

Chương 15 Tin mừng theo thánh Luca ghi lại 3 dụ ngôn nói về lòng nhân hậu của Thiên Chúa: con chiên lạc, đồng bạc mất và người con bỏ nhà đi hoang. Con chiên và đồng bạc thì vô tình bị lạc mất, còn người con thì tự đánh mất chính mình. Tuy nhiên, cuối cùng thì cả ba đều được tìm thấy.

Đoạn tin mừng chúng ta nghe hôm nay kể lại hai dụ ngôn đầu. Dụ ngôn tuy ngắn nhưng giàu hình ảnh và diễn tả nhiều sắc thái tình cảm khác nhau: [lo lắng, so bì, ganh tỵ, bao dung, tha thứ, phấn khởi, hân hoan…]

Bị mất và đi tìm là điều thường xảy ra trong cuộc sống của con người. Đọc báo hay xem tivi, chúng ta thấy người ta không chỉ đăng tin: tìm trâu bò, giấy tờ, xe máy bị mất mà đặc biệt là còn tìm người thân bị lạc mất.

Sự đánh rơi tài sản quý giá hay lạc mất người thân làm cho chủ nhân hay gia đình lo âu, đau khổ; phải vất vả bôn ba kiếm tìm.

Qua hai dụ ngôn, chúng ta nhận thấy: một con chiên dù không có giá trị là bao so với cả đàn chiên, nhưng người chăn chiên cũng cất công tìm kiếm; cũng thế, một đồng bạc chẳng đáng là gì nhưng người phụ nữ đã vất vả kiếm tìm. Cho nên, khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu không có ý nói về tải sản vật chất nhưng nói về các tội nhân được Ngài tìm kiếm và đưa về. Đối với Chúa, mỗi một con người dù tội lỗi đều có giá trị.

Sứ mệnh của Chúa Giêsu đến trần gian là để tìm kiếm những tâm hồn đã hư mất vì tội lỗi. Ngài không quản ngại đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng và mời gọi người ta sám hối. Ngài len lỏi vào mọi ngóc nghách của cuộc sống, giao du tiếp đón mọi hạng người.

Thật vậy, Chúa Giêsu kể những dụ ngôn này trong một hoàn cảnh đặc biệt. Các luật sĩ và biệt phái lấy làm vấp phạm khi thấy Ngài giao du với những kẻ mà họ gọi là tội nhân.

Trong xã hội Do-thái, có một hàng rào ngăn cách giữa những người được xem là đạo đức và những người bị coi là tội lỗi. Các luật sĩ và biệt phái – những người tự nhận mình là đạo đức – hết sức khó chịu khi thấy Đức Giêsu làm bạn với những người tội lỗi.

Tuy nhiên, đối với Đức Giêsu, hạng người tội lỗi mới là đối tượng khiến Chúa phải cất công kiếm tìm: “Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất”.

Con chiên lạc, đồng bạc mất là hình ảnh của mỗi người chúng ta, vì mỗi người chúng ta trước mặt Chúa đều là tội nhân. Chỉ những ai – như biệt phái và luật sĩ kiêu ngạo – tự nhận mình là công chính mới tự loại mình ra khỏi tình thương và ơn cứu độ của Chúa.

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra thân phận tội lỗi của mình để sám hối trở về với Chúa; để được sống trong sự yêu thương che chở của Chúa; đồng thời xin cho chúng con có được trái tim nhân ái, yêu thương, cảm thông với những người tội lỗi lỡ lầm và giúp đỡ họ trở về với Chúa; ngõ hầu tất cả chúng con được hưởng hồng ân Chúa cứu độ. Như thế, chúng con sẽ vui mừng; và cả triều thần thiên quốc cũng vui mừng hân hoan nữa. Amen.

=============

Chủ đề 07: Dụ ngôn đồng bạc bị mất Lc 15, 8-10

8 “Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? 9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.’ 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay : giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”

SUY NIỆM:

Để đối phó với những người phạm tội, luật hình sự tại các quốc gia quy định nhiều hình phạt khác nhau: phạt tiền, giam nhốt trong các nhà tù hay xà lim, lưu đày biệt xứ hoặc trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng thì đem ra xử tử để vĩnh viễn loại trừ người lỗi phạm khỏi thế giới loài người.

Trong khi đó, để đối phó với tội nhân, Thiên Chúa không muốn trừng phạt mà chỉ muốn giúp tội nhân ăn năn hối cải quay về đường lành. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa phán qua miệng ngôn sứ Êdêkiên: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn nó ăn năn sám hối mà được sống” (Êdêkiên 18, 23 và 33, 11)

Đối với Thiên Chúa, mỗi một người đều có giá trị rất cao nên cần phải được trân trọng và yêu thương. Dù con người có đắm chìm trong lầm lạc và tội lỗi, Thiên Chúa không bỏ rơi, không hủy diệt họ, nhưng tìm mọi cách đưa họ trở về đàng lành.

Dụ ngôn người đi tìm chiên lạc trong Tin Mừng Luca (Lc 15, 4-7) chứng tỏ cho chúng ta thấy điều đó:

Người chăn chiên tốt hết lòng yêu thương, quý mến từng con trong đàn, bất kể đó là chiên tốt hay chiên xấu, mập hay gầy, già hay non. Và khi phát hiện ra một con chiên lạc đàn, anh ta bôn ba, tất tả kiếm tìm cho bằng được con chiên lạc với bất cứ giá nào. Một khi đã tìm thấy, anh vác chiên lên vai, mừng vui hớn hở trở về, kêu mời bà con làng xóm đến chia mừng với anh.

Qua dụ ngôn trên đây, Chúa Giê-su tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa xem mỗi người chúng ta là báu vật vô giá, nên nếu có bất kỳ ai “lạc mất”, thì Ngài phải tìm về cho bằng được.

Tìm kiếm, cảm hoá và chết thay

Phương cách xử trí của Thiên Chúa đối với tội nhân gồm ba nét lớn: tìm kiếm, cảm hoá và chết thay.

Tìm kiếm: Thay vì trừng trị hoặc trừ khử các tội nhân như các tòa án khắp nơi thường làm, Thiên Chúa Ngôi Hai đã rời bỏ ngai trời vinh hiển, vượt qua khoảng cách gần như vô tận giữa trời và đất, hạ mình xuống thế, trở nên người phàm để đi tìm kiếm từng người trong nhóm họ.

Cảm hoá: Thay vì tống giam các tội nhân vào ngục, bắt họ mang gông cùm xiềng xích, Chúa Giê-su rất tôn trọng và quý mến tội nhân, tìm nhiều cách hoán cải họ; có khi Ngài còn đến ở lại trong nhà người tội lỗi, cùng ăn uống đồng bạn với họ, trở nên bạn bè của họ, nhằm lấy tình bạn mà cảm hóa họ trở về. (Luca 15,2)

Chết thay: Thay vì kết liễu mạng sống của các tội nhân ác nghiệt, bắt họ phải đền nợ máu họ đã gây ra như các tòa án nhân loại thường làm, Chúa Giê-su đã đổ máu châu báu của mình ra để chết thay cho họ, để rửa sạch họ khỏi muôn vàn tội lỗi và cho họ được sống đời đời.

Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân, ngay cả những tội nhân bầm dập, khốn cùng nhất, đã được Chúa Giê-su khẳng định trong Tin Mừng Mat-thêu: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Ngài đưa công lý đến toàn thắng.” (Mt 12, 20 và Is 42, 3)

Lạy Chúa Giê-su, Hôm xưa, Chúa đã rong ruổi tìm kiếm từng con chiên lạc để vác chiên về. Hôm nay, để tiếp tục sự nghiệp đó, Chúa đã dùng bí tích Thánh Tẩy để tháp nhập chúng con vào Thân Mình Chúa, cho chúng con trở thành một chi thể sống động trong Thân Thể Chúa để chúng con đồng hành với Chúa trên hành trình tìm kiếm và đưa về đàn nhiều con chiên lạc trong thôn xóm chúng con.

Xin cho chúng con trở nên đôi chân của Chúa, rảo bước không mệt mỏi trên vạn nẻo đường đời, để tìm kiếm và đưa về những anh em lạc xa đường Chúa. Xin cho chúng con trở nên đôi vai của Chúa để làm chỗ dựa tinh thần cho những con người lâm cảnh khốn cùng đang cần một chỗ tựa nương. Amen.

============

Chủ đề 08: Dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc 15, 11-32)

11 Rồi Đức Giê-su nói tiếp : “Một người kia có hai con trai. 12 Người con thứ nói với cha rằng : ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.’ Và người cha đã chia của cải cho hai con. 13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. 14 “Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. 16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. 17 Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ : ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói ! 18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người : ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’ 20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.

“Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. 21 Bấy giờ người con nói rằng : ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa …’ 22 Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng : ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, 23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! 24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.’ Và họ bắt đầu ăn mừng.

25 “Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27 Người ấy trả lời : ‘Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.’ 28 Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả lời cha : ‘Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng !’

SUY NIỆM:

Câu chuyện của nhân vật Cha và con trong dụ ngôn mà Thánh sử Luca trình bày trong bài Tin mừng hôm nay, diễn tả trung thực hình ảnh mong đợi của người Cha trong bất kỳ thời đại nào hay nền văn hóa nào. Dù người con có ngoan ngoãn ở trong gia đình hay rũ bỏ tình cha con ra đi, thì tình cha vẫn phủ lấp trên mọi lỗi lầm của con. Dụ ngôn cũng mặc khải tấm lòng yêu thương của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu cho chúng ta thấy bằng hành động. Thiên Chúa là người cha biết thương xót, đi đến với mọi con cái để đem họ về đoàn tụ và để nối kết họ lại với nhau.

Khởi đầu dụ ngôn là những lời chỉ trích của những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư khi Đức Giêsu đón tiếp và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi, vốn là những người bị loại trừ khỏi xã hội. vì vậy, không ai được giao tiếp với họ. vậy mà Đức Giêsu chẳng những đón tiếp mà con ăn uống với họ nữa. ngài chia sẻ với họ trong bữa ăn đầy tình huynh đệ, giúp họ thoát ra cái mặc cảm tội lỗi của họ. điều này khiến các kinh sư và người Phariseu không hài lòng.

Để lý giải cho hành động của mình, Đức Giêsu kể dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” (Lc 15, 11- 32) để mời gọi những người Phariseu và các kinh sư nói riêng và mỗi người chúng ta nói chung biết mở rộng tâm hồn đón tiếp những người tội lỗi hòa nhập với xã hội khi họ ăn năn sám hối và nhất là biết chia sẻ niềm vui với Thiên Chúa khi trước sự hoán cải của những người lâu nay xa rời Thiên Chúa để đi vào tương quan thân tình với Người.

Dụ ngôn kể lại : Sau khi người con thứ đòi chia gia tài, người cha đã làm theo ý con của mình. Có lẽ khi hành động như vậy, người cha cũng đã rất đau lòng vì ông thấu hiểu tính tình, tâm tư của từng đứa con mình nhưng ông luôn tôn trọng tự do của chúng nên ông làm theo ý muốn của chúng. Người cha chia gia tài cho con và để con tự định đoạt về khối tài sản đó. Từ khi người con thứ ra đi với phần sản nghiệp của mình, lòng người cha lại đau đáu mong chờ. Ông chờ người con thứ quay trở về với ông, dù nó có ra sao đi chăng nữa ông vẫn mong ngày nó trở về. Niềm vui trào tràn đến với ông khi ông nhìn thấy bóng con từ đàng xa. Ông vội chạy ra đón con, cuống quýt với áo áo, giày giày; với việc giết bê béo ăn mừng… Ông chẳng màng đến hình dạng xơ xác của người con, đến bài “diễn văn” soạn sẵn của con. Ông thể hiện tình thương của một người cha thật ấm áp: “Anh còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để”. Trong nhà có thứ gì đẹp, thứ gì quý giá ông mang hết ra cho con: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng”. Trong lòng ông, niềm vui trào tràn, bùng vỡ biểu lộ một tình thương vô bờ bến, ông chưa bao giờ ghét bỏ dù đứa con trở về với hai bàn tay trắng. Ông chỉ biết một điều rằng: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Đã có đôi lần, hành xử của chúng ta cũng giống như người con thứ, ta được bao bọc bởi tình thương của Thiên Chúa, được sống trong tình thương của Chúa nhưng ta luôn muốn thoát ra khỏi sự bảo bọc đó, ra đi đến những nơi ta muốn, được thỏa thích làm theo ý của mình. Khi gặp khó khăn thử thách, ta đến với Chúa với bao toan tính vụ lợi. Lời cầu nguyện của ta chỉ đầy những lời cầu xin cho mình mà quên lời sám hối ăn năn. Thiên Chúa vẫn hằng mong ta quay trở về với Người, dù ta có bội nghĩa vong ân, có phung phí biết bao ân sủng của Người…

Được sống trong nhà cha, ở bên cha sớm tối nhưng người con cả lại chẳng thấy niềm vui. Cuộc sống của anh thật tẻ nhạt. Nếu không có bữa tiệc linh đình đón em trở về, có lẽ chẳng ai thấy được tâm tư trĩu nặng của anh: “Đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè”. Hơn nữa, lòng ghen tỵ của anh xóa đi tương quan huynh đệ, anh nói về người em của mình với giọng đầy khinh bỉ, miệt thị: “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng”. Phản ứng của người con cả không làm cho người cha tức giận, trái lại ông dịu dàng giải thích với người con cả những ân sủng mà anh ta không nhận ra khi ở trong nhà cha và niềm vui của mình khi người em của anh quay trở về: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất, nay lại tìm thấy”. Chúng ta cũng có lúc như người con cả, được làm con Thiên Chúa, được ở trong nhà Chúa, sống với Chúa, luôn giữ các giới răn cách tuyệt đối… nhưng ta lại không cảm nhận được niềm vui sống trong nhà Chúa, không nhận ra được ân sủng của Chúa trên cuộc đời mình. Ta ghen tỵ với những ân sủng và niềm vui của người khác; ta tính toán thiệt hơn, so đo với người khác. Ta quên rằng: tình thương và lòng nhân ái của Chúa luôn phủ lấp trên cuộc đời ta. Ta chỉ thật sự là con của Cha, khi ta yêu thương chính anh em mình.

Dụ ngôn giới thiệu hình ảnh người Cha như một biểu tượng về Thiên Chúa. Thái độ bao dung của người cha trong dụ ngôn cho ta thấy được tình thương của Thiên Chúa không chỉ với người tội lỗi hoán cải mà còn với cả những người không nhận ra tình thương của Chúa, ghen tỵ và thiếu sự cảm thông đối với người khác. Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta chia sẻ niềm vui với người tội lỗi khi họ sám hối và trở về với Chúa như chính Chúa đã vui mừng khi đón tiếp và chia sẻ với họ.

===========

Chủ đề 09: Dụ ngôn anh nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó (Lc 16,19-30)

19 “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. 20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, 21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. 22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

23 “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. 24 Bấy giờ ông ta kêu lên : ‘Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát ; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm !’ 25 Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Con ơi, hãy nhớ lại : suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi ; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. 26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.’

27 “Ông nhà giàu nói : ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, 28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này !’ 29 Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.’ 30 Ông nhà giàu nói : ‘Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.’

SUY NIỆM:

Có một đứa trẻ bị khuyết tật bẩm sinh, hằng ngày đi học, cậu thường bị chúng bạn chế nhạo, bắt nạt, đó là điều khiến cậu trở nên lạnh lùng và khép kín. Một hôm cha cậu nhặt được một con chó sắp chết rét từ trong đống tuyết… con chó được đặt nằm xuống gần chân cậu bé, nó run cầm cập. Cậu bé không thích con chó dơ dáy này, cậu dùng chiếc nạng của mình đuổi nó đi, nó không biết đi đâu, nên nằm ngoài cửa kêu ăng ẳng thảm thiết.

Cha cậu nghe tiếng chó kêu thì biết chuyện. Vì thế, ông đến phòng để trò chuyện với cậu bé. Khi nghe cậu bé kể ở trường cậu thường bị bạn bè bắt nạt, ông nói: “Tại sao những đứa trẻ ấy lại bắt nạt con?”. Cậu bé nói: “Bởi vì chân con có tật, con không thể chơi lại chúng nên chúng mới bắt nạt con”. Người cha lúc đó mới ôn tồn nói: “Chúng khỏe mạnh, còn con yếu, cho nên chúng bắt nạt con. Còn bây giờ thì con rất mạnh, con chó lại rất yếu, vậy tại sao con lại không biết thương cảm nó?”. Nghe xong, cậu bé ngân ngấn nước mắt, một lúc sau cậu ẵm con chó vào đặt cạnh lò sưởi và vuốt ve nó… Sau này cậu bé trở thành vị bác sĩ nổi tiếng nhân hậu, được mọi người yêu thương và kính trọng.

Câu chuyện cho thấy người cha ở đây đã thật khéo léo để biết cách dạy con mình trở thành người biết yêu thương và nhờ đó người con đã thành nhân và được mọi người quí mến.

Quả thực tình yêu thương, lòng trắc ẩn là những đức tính làm cho chúng ta trở thành con người đúng nghĩa. Khi tâm hồn thiếu vắng tình yêu thì phải thấy rằng chúng ta đang tụt hậu. Còn ai biết sống yêu thương thì lại là những người đang cùng nhau tiến nhanh trên hành trình của ơn cứu độ. Đây chính là những người mà Chúa Giêsu nói đến trong bài giảng trên núi : “Phúc thay ai có lòng thương xót vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, sở dĩ người phú hộ không được vào Nước Trời, vì ông đã không tỏ lòng thương xót đối với Ladarô, cho dù đó chỉ là một chút nhỏ nhoi dành cho con người khốn khổ ngày ngày lê lết ăn mày trước cổng nhà ông.

Người phú hộ phải “chịu cực hình” không phải vì ông còn nhiều của cải, nhưng vì ông đã không biết “sử dụng của cải mà mua lấy bạn hữu Nước Trời”, mà bạn hữu ở đây không ai khác là chính Lazarô nghèo khó mà ông gặp hàng ngày. Thực sự, tiêu chuẩn để vào Nước Trời không phải ở chỗ giàu hay nghèo, nhưng hệ tại nơi việc sống bác ái với anh chị em.

Tội của người phú hộ chính là tội vô tâm, làm ngơ, phớt lờ, không nhìn, không nghe, không thấy người nghèo, Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn đói khổ. Tội của người phú hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ ra mình phải làm cho người đang cần mình trợ giúp. Sẽ có một ngày tất cả chúng ta bước vào một thế giới mà giấy thông hành không phải là tiền của nhưng chính là tình yêu. Chỉ có những ai yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em mới được bước vào.

Thánh Augustinô có lần đã nói rằng tất cả chúng ta đều là những người ăn mày đang cần đến hồng ân Thiên Chúa: “Anh em giàu có với những của cải tạm bợ, nhưng anh em cần những thứ vĩnh cửu. Điều mà anh em làm với những ai khẩn cầu anh em thì Thiên Chúa cũng sẽ thực hiện như thế với anh em… Hãy đong đầy cho những người anh em đang túng thiếu, để sự túng thiếu của anh em cũng được đong đầy”.

Là những người cần đến lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa, những người cầu nguyện với đôi bàn tay mở ra như những cái bát của người ăn mày, tôi và bạn đến lượt mình, ta phải cố gắng sống nhân từ, quảng đại và thương xót những người khác, bởi vì mức độ ta cho sẽ trở thành mức độ mà ta nhận.

Có một bạn sinh viên đã tâm sự trên Tuổi Trẻ Online như sau:

“Dưới cái nắng của buổi trưa tháng 3, tôi đang vội vã đi bộ từ trường Đại học Nhân văn ra Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia. Trên đường, một cô bé chừng 16-17 tuổi kéo tôi lại với bịch tăm tre nhỏ xíu và nói: “Đây là sản phẩm của các em khuyết tật trường Chu Văn An, mời chị mua ủng hộ”. Chẳng cần suy nghĩ, tôi khoát tay từ chối và vội bước đi, tự nhủ: “Mình lạ gì mấy trò này nữa, chủ yếu là xin tiền chứ mua bán gì”. Tôi đã không ít lần bị lừa ở phòng trọ, cũng như được bạn bè cảnh báo về mấy người “giả mạo” này. Nhưng đi rồi, tôi vẫn cố ngoái lại nhìn xem cô bé đó còn ở đó không? Nắng giữa trưa, tôi bịt hai lớp khăn che mặt vẫn còn thấy rát, vậy mà cô bé tiếp tục đứng đầu trần và mời một bạn sinh viên khác và người ấy đã mua. Tôi thấy mình xấu hổ. Tôi nhớ thầy tôi từng nói: “Biết có thể bị lừa vì những người giả bộ bị móc túi, lỡ đường để xin tiền nhưng thầy vẫn cho. Biết đâu gặp người cần giúp đỡ, có vậy lòng mình mới thanh thản…”. Tôi định quay lại mua cho cô bé bịch tăm nhưng lại ngại, đành tiếp tục đi, lòng suy nghĩ bứt rứt. Chắc cô bé là học sinh tình nguyện hay đang là tình nguyện viên cho mái trường ấy. Vậy mà tôi…”

Tâm trạng của người bạn trẻ này chắc cũng phản ánh thái độ vô cảm mà chúng ta đôi khi vướng phải trong cuộc đời, khi chúng ta dửng dưng trước những con người đáng thương. Đó cũng là thực trạng nơi trái tim chai cứng của nhân loại thời nay trước những đau khổ của đồng loại quanh mình. Suy nghĩ của bạn sinh viên một lần nữa lại gợi lên trong chúng ta hình ảnh của Tin mừng Lc 16, 19-31: Người phú hộ giàu có, ngày ngày yến tiệc linh đình, cao lương mỹ vị, nhưng ngay bên lại tồn tại một anh Lazarô nghèo nàn chết trong đói khổ, không được trợ giúp.

Ở đây cho thấy, không phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự đưa mình xa rời Thiên Chúa và ngăn cách với anh em. Khi mắt ta không để ‎ý sự đau khổ, tâm hồn ta không chút xót thương đến những người phận nhỏ, lòng trắc ẩn không hề rung động trước bi thương của anh em đồng loại sẽ tạo nên hố ngăn cách sâu thẳm giữa ta với tha nhân và với nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa. Và như cành nho không gắn liền với thân nho, nó sẽ bị khô héo mà chết đi, mất đi sự sống thần linh, sự sống viên mãn.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy cho chúng con biết số phận con người sẽ được hạnh phúc viên mãn hay bị luận phạt muôn đời tùy theo chúng con có biết yêu thương tha nhân hay không. Xin Chúa dắt chúng con luôn đi trên con đường dẫn tới ơn cứu độ: Biết nghe lời hướng dẫn của Môisê, các ngôn sứ, đặc biệt là Lời Chúa để sám hối, hoán cải và yêu thương mọi người nhất là những anh chị em nghèo khổ. Vì chúng con biết Thiên Đàng không dành riêng cho một mình con. Nhưng con chỉ có thể tiến vào cùng với anh chị em trong tình yêu thương – Amen.

===========

Chủ đề 10: Ông Gia-kêu (Lc 19,1-10)

1 Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. 2 Ở đó có một người tên là Da-kêu ; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. 3 Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. 4 Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. 5 Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông : “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !” 6 Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. 7 Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau : “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !” 8 Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng : “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo ; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” 9 Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng : “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. 10 Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”

SUY NIỆM:

Hoán Cải Ðích Thực

Gặp gỡ Chúa Giêsu là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hoặc tránh né cuộc gặp gỡ này.

Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Chúng ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này. Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ khác, không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Ðó là thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng được hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác không?

Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Ðối với người Do thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế quá mức qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do thái, chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Ðối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Ðấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.

Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.

Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa.

==============

Chủ đề 11: Phê rô chối Chúa…(Lc 22,31-34.54-62)

31 Rồi Chúa nói: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. 32 Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” 33 Ông Phê-rô thưa với Người : “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng.” 34 Đức Giê-su lại nói : “Này anh Phê-rô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy.”

54 Họ bắt Đức Giê-su, điệu Người đến nhà vị thượng tế. Còn ông Phê-rô thì theo xa xa. 55 Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông Phê-rô đến ngồi giữa họ. 56 Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói : “Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy !” 57 Ông liền chối : “Tôi có biết ông ấy đâu, chị !” 58 Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói : “Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng !” Nhưng ông Phê-rô đáp lại : “Này anh, không phải đâu !” 59 Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết : “Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Ga-li-lê.” 60 Nhưng ông Phê-rô trả lời : “Này anh, tôi không biết anh nói gì !” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. 61 Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông : “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” 62 Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.

SUY NIỆM:

Phêrô quả thực là con người dân dã, bộc trực, nghĩ sao nói vậy, và vì thế không ý thức bao nhiêu về chính con người mình. Theo lòng hăng say tự nhiên, Phêrô muốn theo Thầy dù phải thử thách, tù tội, ngay cả phải hy sinh tới tính mạng, nhưng Phêrô cần phải được thanh tẩy và thanh luyện tâm hồn và nhất là phải xác nhận lại tình yêu của mình đối với Đức Giêsu.

Phêrô đã chối Chúa ba lần, cả ba lần ông đều quả quyết không biết Thầy mình là ai. Dù theo Thầy đã lâu nhưng Phêrô chưa thực sự biết Chúa Giêsu vì ông chưa nhận ra tình thương bao la, vô biên của Ngài : “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13). Chính Chúa Giêsu sẽ làm cho Phêrô ý thức rõ hơn bao giờ hết về sự yếu hèn của ông và về tình yêu mãnh liệt của Chúa dành cho ông. Thật vậy, cái nhìn đầy xót thương của Chúa đã làm cho Phêrô ăn năn trở lại. Sự nhát đảm, yếu hèn của Phêrô đã biến thành tình yêu mến. Lần đầu Phêrô tuyên xưng đức tin, lần thứ hai ông tuyên xưng lòng mến : “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu Thầy”.

Phêrô đã nhận được ơn tha thứ nhờ chính cái chết của Chúa Giêsu. Như Phêrô, chúng ta cũng nhiều lần tin vào Chúa, rồi sau đó lại chối Chúa. Chúng ta đã nhiều lần cương quyết theo chân Chúa tới cùng, nhưng thái độ sống của chúng ta nhiều khi lại xa Chúa và xa Tin Mừng. Chúng ta nói tin Chúa và yêu Chúa nhưng lại sống thiếu bác ái yêu thương đối với tha nhân.

Chúng ta hãy cương quyết trở lại và tin vào Chúa, tin vào Tin Mừng. Hãy trở lại để thánh hóa bản thân nhờ sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, và hãy theo Chúa đừng tiếc nuối của cải như người thanh niên giầu có. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô kêu gọi các bạn trẻ chúng ta : “…Hãy quảng đại dâng hiến đời mình cho Đức Kitô. Đừng sợ hãi ! Các con không có gì phải sợ, vì Thiên Chúa là Chúa của lịch sử và của vũ trụ. Hãy để những khát vọng về những kế hoạch vĩ đại và cao thượng lớn lên trong các con. Hãy nuôi dưỡng cảm thức về tình liên đới : đó là dấu chỉ Thiên Chúa hành động nơi tâm hồn của các con. Hãy sẵn sàng sử dụng các tài năng mà Đấng Quan Phòng đã trao ban cho các con. Vì cộng đoàn của các con. Các con càng sẵn sàng dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa và tha nhân. Các con sẽ càng khám phá ra ý nghĩa đích thực của đời sống. Thiên Chúa mong đợi nhiều nơi các con”.

===========

Chủ đề 12: Người trộm lành được hưởng lòng thương xót (Lc 23,39-43)

29 Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói : “Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm !” 30 Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non : Đổ xuống chúng tôi đi !, và với gò nổng : Phủ lấp chúng tôi đi ! 31 Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao ?” 32 Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người.

33 Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. 34 Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng : “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm.

35 Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo : “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn !” 36 Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống 37 và nói : “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi !” 38 Phía trên đầu Người, có bản án viết : “Đây là vua người Do-thái.”

39 Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người : “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao ? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với !” 40 Nhưng tên kia mắng nó : “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! 41 Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái !” 42 Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su : “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !” 43 Và Người nói với anh ta : “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.”

SUY NIỆM:

Cầu Cho Các Tín Hữu Ðã Qua Ðời

Hôm nay chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người thân cũng như mọi người quá cố. Lễ cầu cho các đẳng đã được thánh Audilo, tu viện trưởng tu viện Crainy, tại Pháp, thiết lập cách đây một ngàn năm, liền sau lễ Các Thánh, qua đó Giáo Hội vui mừng cử hành việc thông hiệp các thánh và ơn cứu rỗi.

Thánh Audilo đã thúc giục các tu sĩ trong tu viện hãy cầu nguyện một cách đặc biệt cho người quá cố. Lời cầu cho các đẳng không mấy chốc đã lan rộng ra khắp nơi. Ðể nuôi dưỡng tâm tình và lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay, thiết tưởng chúng ta nên lắng nghe lại sứ điệp mà Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gửi cho đức cha Raymon Sagi, giám mục Otinsalone và Margone, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thánh Audilo thiết lập lễ cầu cho các đẳng linh hồn.

Mầu nhiệm vượt qua phải là trọng tâm của những suy tư và là nền tảng của những lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay.

Ðức Thánh Cha viết như sau:

“Khi cầu nguyện cho người quá cố, trước tiên Giáo Hội chiêm ngắm mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, Ðấng mang lại ơn cứu rỗi và sự sống vĩnh cửu cho chúng ta qua thập giá của Ngài. Do đó, cùng với thánh Audilo, chúng ta có thể lặp lại không ngừng như sau: “Thánh giá là nơi nương ẩn, là đường đi và là sự sống của tôi. Thánh giá là khí giới bất diệt của tôi. Thánh giá chiến thắng mọi sự dữ. Thánh giá đẩy lui mọi bóng tối”. Thánh giá của Chúa Giêsu nhắc chúng ta rằng mọi cuộc sống đều được ánh sáng phục sinh soi dẫn và không có một hoàn cảnh nào là hoàn toàn hư mất, bởi vì Ngài đã chiến thắng sự chết và mở đường cho chúng ta tiến vào sự sống thật. Trong ngày cầu cho người đã qua đời, chúng ta nói lên niềm hy vọng cho chúng ta”.

Ðức Thánh Cha giải thích:

“Tin vào sự phục sinh của thân xác là nhìn nhận rằng sẽ có một chung cục, một cùng đích cho mọi người. Một cùng đích thỏa mãn khát vọng của con người đến độ nó không còn gì phải khao khát nữa. Niềm khát vọng ấy được thánh Augustinô diễn tả một cách thật kỳ diệu như sau: “Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con không thể an nghỉ khi chưa được nghỉ an trong Chúa”. Do đó, tất cả chúng ta được mời gọi để sống với Chúa Kitô, Ðấng ngự bên hữu Chúa Cha và được chiêm ngắm Thánh Thần, vì Thiên Chúa là đối tượng của niềm hy vọng Kitô. Cầu nguyện cho người quá cố, chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến những người thân và các tín hữu Kitô. Chúng ta cũng được mời gọi để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố, dù tin hay không tin, dù thuộc về hay ở ngoài Giáo Hội hữu hình”.

Ðức Gioan Phaolô II đã trích dẫn kinh Tin Kính của Ðức Phaolô VI như sau:

“Chúng ta tin rằng Giáo Hội là cần thiết trong ơn cứu rỗi, bởi vì Chúa Kitô là trung gian duy nhất và là con đường cứu rỗi duy nhất, và bởi vì Ngài hiện diện với chúng ta trong thân thể Ngài là Giáo Hội, nhưng chương trình của Thiên Chúa ôm trọn lấy tất cả mọi người. Do đó những ai không do lỗi của họ mà không biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Chúa và hành động theo lương tâm của mình nhờ ơn Chúa thúc đẩy, mà thực thi ý muốn của Ngài, những người đó cũng thuộc về dân Ngài, cho dẫu bằng một cách thế mà chúng ta không thấy và do đó cũng có thể được phần rỗi đời đời. Chỉ có Chúa mới biết con số những người ấy”.

Chính vì thế mà Ðức Thánh Cha kêu gọi chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố. Lời cầu nguyện mà Giáo Hội không ngừng dâng lên Chúa có một giá trị lớn lao, đó là đặc điểm của một tâm hồn luôn hướng về lòng nhân từ của Chúa. Giáo Hội tin rằng các linh hồn đã được thanh luyện, đã được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện của các tín hữu, và nhất là bởi thánh lễ trên bàn thờ cũng như các việc bố thí và những việc làm đạo đức khác.

Trong phần kết thúc sứ điệp gởi cho đức giám mục kiêm tu viện trưởng tu viện Crainy, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thiết lập ngày cầu cho các đẳng, Ðức Thánh Cha tha thiết kêu gọi như sau:

“Tôi cổ võ các tín hữu công giáo hãy sốt sắng cầu cho những người quá cố, cho người thân trong gia đình và cho tất cả mọi anh chị em đã ly trần để họ được tha thứ khỏi hình phạt cho tội lỗi của họ, và có thể lắng nghe được lời mời gọi của Chúa: “Hỡi linh hồn yêu dấu, hãy vào nghỉ ngơi muôn đời trong vòng tay từ ái của Ta”.

Trong ngày hôm nay và trong suốt tháng 11 này, chúng ta hãy dâng mọi ý nguyện và những hy sinh của chúng ta để cầu nguyện cho người thân và mọi người quá cố. Ước gì những lời cầu nguyện và hy sinh ấy cũng nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào cuộc sống mai hậu, và nhờ đó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta.

============

Chủ đề 13: Người bị liệt ở hồ Bết-da-tha (Ga 5,1-15)

1 Sau đó, nhân dịp lễ của người Do-thái, Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. 2 Tại Giê-ru-sa-lem, gần Cửa Chiên, có một hồ nước, tiếng Híp-ri gọi là Bết-da-tha. Hồ này có năm hành lang. 3 Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất toại nằm la liệt ở đó, chờ cho nước động, 4 vì thỉnh thoảng có thiên thần Chúa xuống hồ khuấy nước lên ; khi nước khuấy lên, ai xuống trước, thì dù mắc bệnh gì đi nữa, cũng được khỏi. 5 Ở đó, có một người đau ốm đã ba mươi tám năm. 6 Đức Giê-su thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói : “Anh có muốn khỏi bệnh không ?” 7 Bệnh nhân đáp : “Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người đem tôi xuống hồ. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống trước mất rồi !” 8 Đức Giê-su bảo : “Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi !” 9 Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi được.

Hôm đó lại là ngày sa-bát. 10 Người Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh : “Hôm nay là ngày sa-bát, anh không được phép vác chõng !” 11 Nhưng anh đáp : “Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi : ‘Anh hãy vác chõng mà đi !'” 12 Họ hỏi anh : “Ai là người đã bảo anh: ‘ Vác chõng mà đi ‘ ?” 13 Nhưng người đã được khỏi bệnh không biết là ai. Quả thế, Đức Giê-su đã lánh đi, vì có đám đông ở đấy. 14 Sau đó, Đức Giê-su gặp người ấy trong Đền Thờ và nói : “Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước !” 15 Anh ta đi nói với người Do-thái : Đức Giê-su là người đã chữa anh khỏi bệnh.

Suy Niệm

Các Tin Mừng Nhất lãm chẳng khi nào nói đến chuyện Đức Giêsu chữa bệnh cho ai ở vùng Giêrusalem. Riêng Tin Mừng Gioan nói đến chuyện Ngài chữa bệnh cho một anh bất toại tại một cái hồ, gần Cửa Chiên dẫn vào khuôn viên Đền thờ Giêrusalem. Hồ Bếtdatha này khá lớn, có hình chữ nhật, được ngăn làm hai phần. Chính vì thế có đến năm hành lang, nơi đây người bệnh nằm la liệt. Họ mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền khác nhau, nhưng ai đến đây cũng nuôi hy vọng khỏi bệnh.

Giữa bao người ốm đau tàn tật đó, dường như Đức Giêsu chỉ thấy một mình anh. Ngài biết anh mắc bệnh đã lâu, nằm trên chõng một thời gian dài. Ba mươi tám năm, thời gian bằng một nửa đời người. Chính Đức Giêsu là người đến với anh và mở lời bằng một câu hỏi: “Anh có muốn trở nên lành mạnh không?” (c. 6). Câu hỏi có vẻ thừa này thật ra lại chạm đến nỗi khát khao sâu thẳm của anh.Nó đụng đến chờ đợi mòn mỏi của anh từ nhiều năm qua. Anh bất toại không trả lời câu hỏi của Đức Giêsu, người với anh vẫn còn xa lạ. Nhưng anh lại muốn trải lòng cho người lạ này thấy cái ngõ cụt của mình, những lý do khiến mình phải nằm ở đây lâu đến vậy. “Tôi không có người đem tôi xuống hồ, khi nước động”: đó là lý do thứ nhất. Tôi không có được sự trợ giúp từ phía bạn bè thân thuộc. Tôi cô đơn, trơ trọi một mình. Giá mà tôi có ai đó giúp tôi lúc cơ may đến… “Lúc tôi tới đó, thì người khác đã xuống trước tôi rồi”: đó là lý do thứ hai. Khi phải lê đi bằng chính sức của mình, thì tôi bao giờ cũng là người đến sau. Tôi đã cố gắng nhiều lần, nhưng luôn phải cam chịu thất bại. Bây giờ tôi còn dám tin vào mình nữa không?

Anh bất toại mong có một người bạn đem anh xuống nước đầu tiên. Anh mơ thấy ngày trồi lên từ hồ nước, ướt sũng, nhưng đi lại bình thường. Anh chẳng tin rằng ngày ấy là hôm nay. Người bạn anh mong đang ở gần, kéo anh ra khỏi nỗi cô đơn.Anh sẽ được khỏi bệnh mà người vẫn khô ráo.”Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi !”: đây là lời mời hay mệnh lệnh? Bất ngờ, nhanh chóng và dễ dàng, anh đã đứng lên và đi được. Cái chõng đã vác anh, bây giờ anh vác nó. Hãy nhìn những bước đi đầu tiên của người ba mươi tám năm bất toại. Anh đã trở nên lành mạnh, dù anh không xin hay bày tỏ lòng tin nào (cc. 6, 9,14). Giêsu đến với anh như một người bạn làm anh trở nên lành mạnh (cc. 11,15). Vì chữa bệnh cho anh này vào ngày sabát, Ngài đã bắt đầu bị chống đối (c.16).

Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi tôi: Con có muốn trở nên lành mạnh không? Con có muốn ra khỏi sự bất toại kinh niên của mình không? Ngài mời tôi đứng lên và mạnh dạn bước đi, bỏ lại quá khứ tội lỗi. Sau khi được chữa lành, ngài dặn tôi đừng phạm tội nữa (c. 14).

Cầu nguyện:

Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin; vẫn có những người đã chết từ lâumà vẫn tưởng mình đang sống; vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống; vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong…

Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha.

Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con.

=============

Chủ đề 14: Người phụ nữ ngoại tình được Chúa thương xót (Ga 8,1-11)

1 Còn Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu. 2 Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. 3 Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, 4 rồi nói với Người : “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. 5 Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao ?” 6 Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. 7 Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ : “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” 8 Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. 9 Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. 10 Người ngẩng lên và nói : “Này chị, họ đâu cả rồi ? Không ai lên án chị sao ?” 11 Người đàn bà đáp : “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giê-su nói : “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu ! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa !”

SUY NIỆM:

Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ suy niệm về cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người phụ nữ sẽ bị ném đá. Bởi vì lời giảng và cách hành động của Chúa Giêsu đã gây phiền và gây rối cho những nhà cầm quyền tôn giáo. Do bởi điều này, mà họ đã thử, bằng mọi cách có thể, để tố cáo Ngài và để loại trừ Ngài. Do đó, họ đã mang đến trước mặt Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Dưới bề mặt của sự trung thành đối với Lề Luật, họ dùng người phụ nữ này để tạo ra một cuộc tranh luận để chống lại Chúa Giêsu. Cũng thế ngày nay, dưới bề mặt của sự trung thành dành cho những Luật của Hội Thánh, mà nhiều người đã bị cho ra ngoài lề. Những người ly hôn, gái mại dâm, người bệnh AIDS, những người mẹ đơn chiếc (Single mom), những người đồng tính… Chúng ta hãy xem cách Chúa Giêsu phản ứng:

Ga 8, 1-2: Chúa Giêsu và người dân. Sau khi bàn luận về nguồn gốc của Đấng Mêsia, được diễn tả cuối chương 7 (Ga 7,37-52), “Tất cả họ ai về nhà nấy” (Ga 7,53). Giêsu không có nhà ở Giêrusalem. Đây là lý do vì sao Ngài lên núi Ôliu. Ở đó có một khu vườn, nơi mà Ngài thường cầu nguyện ban đêm (Ga 18,1). Ngày tiếp theo, trước bình minh, trước khi mặt trời mọc, Chúa Giêsu đã lại ở Đền Thờ. Người dân đến rất gần Ngài để có thể nghe Ngài nói. Họ ngồi trên nền đất, chung quanh Chúa Giêsu và Ngài dạy dỗ họ. Chúa Giêsu đã dạy điều gì? Ắt hẳn điều ấy phải rất đẹp bởi vì người dân đã đến đó trước khi mặt trời mọc để có thể nghe Ngài!

Ga 8, 3-6ª: Các Kinh Sư chuẩn bị để phản công. Một cách không mong đợi, các Kinh sư và Pharisiêu đến, với một người phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa. Theo luật, người phụ nữ đó phải bị ném đá (Lv 20, 20; Đnl 22, 22.24). Họ hỏi: “Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”. Nó là một cái bẫy. Nếu Chúa Giêsu nói: “Áp dụng Luật”, họ sẽ nói rằng: “Ông ấy không tốt như những gì ông ấy thể hiện, bởi vì ông ấy kêu giết người phụ nữ nghèo!”. Nếu Ngài ta nói: “Đừng giết cô ta”, họ sẽ nói: “Ông ấy không tốt như những gì ông ấy thể hiện, bởi vì ông ấy thậm chí còn không tuân theo lề luật!” Dưới vẻ ngoài của sự trung thành với Thiên Chúa, họ điều khiển lề luật bằng cách sử dụng người phụ nữ để có thể buộc tội Chúa Giêsu.

Ga 8, 6b-8: Phản ứng của Chúa Giêsu: Ngài viết trên đất. Nó gần như là một ngõ cụt không có lối thoát. Nhưng Chúa Giêsu không sợ hãi, cũng không bị bối rối. Thay vào đó, tất cả trái ngược lại. Cách bình tĩnh, làm chủ tình hình, Người cúi xuống và bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Kẻ thù của Ngài mới là người bị bối rối. Họ đòi buộc và muốn Chúa Giêsu đưa ra ý kiến của Ngài. Đoạn Chúa Giêsu ngẩng lên và nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Chúa Giêsu không bàn luận về lề luật. Nhưng Ngài thay đổi chủ thể của sự kết án. Thay vì cho phép họ áp lề luật trên người phụ nữ và kết án cô, Ngài yêu cầu họ kiểm điểm lại bản thân trong ánh sáng của những gì Lề Luật đòi hỏi từ họ. Hành động biểu trưng của việc viết trên đất nói lên tất cả. Lời của Lề Luật của Thiên Chúa có sự nhất quán của riêng nó. Một lời được viết trên đất thì không có sự nhất quán. Mưa và gió sẽ xoá nó đi. Sự tha thứ của Thiên Chúa cũng xoá đi mọi lỗi phạm mà lề luật đã xác định và lên án.

Ga 8, 9-11: Chúa Giêsu và người phụ nữ. Cử chỉ và sự đáp trả của Chúa Giêsu khiến cho kẻ thù của Người bỏ đi hết, họ bị chinh phục. Các Pharisiêu và Kinh sư bỏ đi với sự xấu hổ, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Ngược lại với những gì họ dự kiến diễn ra. Người bị kết án bởi lề luật không phải là người phụ nữ, nhưng lại là những người tin rằng mình trung thành với lề luật. Cuối cùng, chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu với người phụ nữ đứng ở giữa. Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giêsu nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”.

Chúa Giêsu không đồng ý bất kỳ ai sử dụng Lề Luật của Thiên Chúa để kết án người anh em hay người chị em khi một người kết án thì bản thân họ cũng là một tội nhân. Sự kiện này, tuyệt vời hơn bất kỳ bài giảng nào khác, mạc khải rằng Chúa Giêusu là ánh sáng khiến cho sự thật được toả rạng. Ngài mở ra những gì đang tồn tại trong sâu kín của mọi người, trong sự sâu thẳm nhất của mỗi người chúng ta. Trong ánh sáng của lời Ngài, những ai xem ra là người bảo vệ lề luật thì bộc lộ mình đầy tội lội và họ tự nhận thấy điều đó, và họ bỏ đi, bắt đầu từ người lớn tuổi. Và người phụ nữ được xem là tội lỗi và đáng phải chết, vẫn đứng trước Thiên Chúa, được miễn tội, được cứu chuộc và được phục hồi phẩm giá của mình (Ga 3,19-21).

===========

Chủ đề 15: Người mùa bẩm sinh được Chúa thương chữa lành (Ga 9,1-41)

1 Đi ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. 2 Các môn đệ hỏi Người : “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta ?” 3 Đức Giê-su trả lời : “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. 4 Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng ; đêm đến, không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” 6 Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, 7 rồi bảo anh ta : “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là :người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. 8 Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói : “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao ?” 9 Có người nói : “Chính hắn đó !” Kẻ khác lại rằng : “Không phải đâu ! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi !” Còn anh ta thì quả quyết : “Chính tôi đây !” 10 Người ta liền hỏi anh : “Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế ?” 11 Anh ta trả lời : “Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo : ‘Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa.’ Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy.” 12 Họ lại hỏi anh : “Ông ấy ở đâu ?” Anh ta đáp : “Tôi không biết.” 13 Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu. 14 Nhưng ngày Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát. 15 Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời : “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.” 16 Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói : “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát” ; kẻ thì bảo : “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy ?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. 17 Họ lại hỏi người mù : “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh ?” Anh đáp : “Người là một vị ngôn sứ !” 18 Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. 19 Họ hỏi : “Anh này có phải là con ông bà không ? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được ?” 20 Cha mẹ anh đáp : “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. 21 Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó ; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.” 22 Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. 23 Vì thế, cha mẹ anh mới nói : “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.” 24 Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo : “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” 25 Anh ta đáp : “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều : trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được !” 26 Họ mới nói với anh : “Ông ấy đã làm gì cho anh ? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào ?” 27 Anh trả lời : “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa ? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng ?” 28 Họ liền mắng nhiếc anh : “Có mày mới là môn đệ của ông ấy ; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. 29 Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê ; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến.” 30 Anh đáp : “Kể cũng lạ thật ! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi ! 31 Chúng ta biết : Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi ; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. 32 Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. 33 Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” 34 Họ đối lại : “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư ?” Rồi họ trục xuất anh. 35 Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi : “Anh có tin vào Con Người không ?” 36 Anh đáp : “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?” 37 Đức Giê-su trả lời : “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” 38 Anh nói : “Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người. 39 Đức Giê-su nói : “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử : cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !”40 Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng : “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao ?” 41 Đức Giê-su bảo họ : “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng : ‘ Chúng tôi thấy ‘, nên tội các ông vẫn còn !”

SUY NIỆM:

Người là Ðấng, như chúng ta biết luôn lấy công việc làm theo Ý Ðấng đã sai Người, làm lương thực hàng ngày. Hôm nay Người cũng khẳng định như thế, và nói bao lâu còn là ngày, chúng ta phải lao công vào các việc của Ðấng đã sai chúng ta (c.4). Hiện giờ thì còn là ngày, vì “khi Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian” (c.5).

Và sự sáng thì phải soi sáng. Vậy có một người mù từ thuở mới sinh đang đứng đó. Môn đồ không hiểu vì sao có sự kiện ấy. Còn Ðức Kitô ý thức mình là sự sáng, nên thấy ngay đây là công việc Chúa Cha gửi đến cho mình. Người chữa anh ta khỏi.

Câu truyện có thể đến đó là xong. Nó đã đủ để chứng minh: Ðức Kitô là sự sáng. Nhưng khốn nỗi, không những Người là sự sáng nhưng còn là sự sáng thế gian, sự sáng đến trong thế gian; khiến Gioan phải viết thêm: thế gian đón nhận sự sáng ấy như thế nào? Và đó là ý nghĩa của phần còn khá dài trong bài Tin Mừng hôm nay.

Phần này quảng diễn một khẳng định mà Gioan đã viết ngay ở đầu cuốn Tin Mừng của người: sự sáng rạng trong tối tăm và tối tăm đã không triệt được sáng (1,5). Quả thật, việc Ðức Yêsu mở mắt người mù đã như ánh sáng bùng lên trước mặt mọi người. Ai ai cũng bàn tán hỏi nhau (c.8), chẳng làm sao hiểu được. Người ta phải đưa vấn đề trình lên các Biệt phái. Tòa làm việc nhộn nhịp, hỏi cung người mù, đòi chứng của cha mẹ anh ta, hỏi lại anh ta một lần nữa, nỗ lực vùi dập vụ này đi… nhưng đã không triệt được sự sáng. Rõ ràng Gioan muốn ám chỉ: Biệt phái đang mưu mô hại Chúa, nhưng họ sẽ thua. Cuộc tử nạn mà họ muốn Người phải chịu sẽ làm cho họ phải bẽ bàng vì biến cố Phục sinh. Bài Tin Mừng hôm nay, như thế, còn nói lên mầu nhiệm Chúa sống lại của Phụng vụ ngày Chúa nhật và của đích điểm Mùa Chay Thánh.

Chưa hết! Tác giả Gioan còn tiếp tục. Người mù bị các Biệt phái tống cổ ra ngoài. Ðức Giêsu được tin. Người đi tìm anh ta, ban cho anh ta được ơn nhận ra Người và thờ lạy Người. Còn các Biệt phái vì tự phụ là người sáng mắt, nên tội lỗi còn nguyên. Ðúng như lời Chúa nói: “Ta đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù”.

Tác giả Gioan muốn cảnh tỉnh chúng ta đó. Công việc của Thiên Chúa đã hiện tỏ (c.3); mầu nhiệm Phục sinh đã sáng rực. Ai khiêm cung sẽ được soi sáng; còn ai tự phụ sẽ lại đui mù.

Như thế bài Tin Mừng cũng là một bài giáo huấn hơn là một câu chuyện. Ðoạn văn trong sách 1 Samuel đã cho chúng ta thấy Ðức Giêsu Kitô là Vua, là Tiên tri, là Cứu thế. Bản Tin Mừng Gioan nói thêm: Người đã đến trong thế gian như sự sáng, mà tối tăm không triệt được, để ai mù được thấy, ai sáng sẽ mù; để ai tin Con Người thì được rỗi (c.35) và ai không tin sẽ còn nguyên tội lỗi.

Riêng chúng ta đã tin Chúa rồi thì thế nào?

===============

Chủ đề 16: Lòng thương xót qua sự tha thứ, yêu thương kẻ thù (Mt 5,43-48)

43 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng : Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. 44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em : hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. 45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. 46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao ? 47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu ? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao ? 48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.

SUY NIỆM:

Chuyện kể rằng: Đời Trang Công nước Tề có người tên là Tân Ti Tụ đêm nằm mơ thấy một chàng trai cao lớn đội mũ trắng đi giầy mới, mặc quần gai, áo vải, đeo gươm tự dưng đến nhà mắng, nhổ vào mặt mà đi. Tân Ti Tụ giật mình thức dậy, tuy biết chiêm bao nhưng vẫn tức tối, suốt đêm bực rọc khó chịu, không ngủ được.

Sáng dậy, Tân Ti Tụ mời một bạn thân đến nói rằng : Bác ạ, tôi từ nhỏ đến giờ vẫn là kẻ hiếu dũng, nay sáu mươi tuổi rồi mà chưa hề chịu ai làm nhục, thế mà đêm qua bị một đứa nhục mạ tôi, tôi phải đi tìm để báo thù, nếu thấy thì hay, còn không tôi chết mất.

Thế rồi từ hôm ấy, sáng nào Tân Ti Tụ cũng cùng bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình mãi ba ngày không thấy, rút cục Tân Ti Tụ phải uất lên mà chết. (Thái Bạch, Đông Tây Kim Cổ Tinh Hoa, 1965, tr 134)

Trong cuộc sống, tâm lý tự nhiên, ai cũng “yêu bạn và ghét thù”. Có những kẻ thù ngoài ta, nhưng cũng có kẻ thù ngay trong lòng mình.Nếu nhìn tha nhân bằng con mắt ghen ghét, ích kỷ, ngờ vực, ta sẽ thấy ai cũng có thể là kẻ xấu, và ở đâu cũng có kẻ thù. Nếu không tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, thậm chí không tha thứ cho chính mình, ta sẽ chất chứa biết bao phiền muộn, bao kẻ thù ngay trong lòng mình.

Đọc Thánh kinh, ta thấy chính ma quỷ gieo thù hận trong lòng con người, đặt con người vào thế thù nghịch và huỷ diệt nhau. Cho nên, ai còn sống trong thù hận là sống trong sự trói buộc của ma quỷ.

Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài chấp nhận cái chết để tha thứ và giải thoát chúng ta. Ngài còn dạy chúng ta con đường giải thoát là tha thứ; và chính Ngài đã nêu gương cho chúng ta khi, trên thánh giá, ngài cầu nguyện cho kẻ thù: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).

Mỗi người chúng ta thử hồi tâm xét xem khi nói đến từ ‘kẻ thù’ thì trong tâm trí ta xuất hiện người nào? Vậy hãy tha thứ cho họ đi để tâm hồn chúng ta thực sự được giải thoát.

[Văn hào Nga Leon Tonstol có kể câu chuyện như sau: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.

Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà người sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.

Từ đó, đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù. Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sach mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ:”Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”.]

Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất.

Tha thứ là tuyệt đỉnh của yêu thương bởi vì tha thứ là yêu thương chính kẻ thù của mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, qua lời Chúa hôm nay, chúng con nhận ra rằng: kẻ thù khủng khiếp nhất chính là cõi lòng tích chứa thù hận của chúng con. Nếu loại bỏ thù hận ra khỏi lòng mình, chúng con sẽ biến đổi kẻ thù thành bạn hữu; và lúc đó chúng con mới thực sự hưởng sự bình an và xứng đáng là con của Cha trên trời. Amen.

============

Chủ đề 17: Dụ ngôn người mắc nợ không biết thương xót (Mt 18,23-35)

23 Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. 24 Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. 25 Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. 26 Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy : “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết.” 27 Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. 28 Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo : “Trả nợ cho tao !” 29 Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ : “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh.” 30 Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. 31 Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. 32 Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo : “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, 33 thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao ?” 34 Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. 35 Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.”

SUY NIỆM:

Câu chuyện nước trời là câu chuyện của mỗi người chúng ta. Món nợ ân sủng, nợ tình yêu mà ta lãnh nhận từ Thiên Chúa làm sao có thể trả nổi. Từ khi thành hình bào thai trong lòng mẹ ta đã mắc nợ rồi – một món nợ tình, nợ ân. Mười ngàn nén vàng là bao nhiêu! Một trăm quan tiền là bao nhiêu! Thế nhưng cuộc sống con người vẫn mãi ích kỷ, so đo tính toán, bởi vì lòng người chai đá không cảm được ân  tình Thiên Chúa, không biết xót thương anh em.

Vâng, từ khi là bào thai ta đã mắc nợ; nợ cưu mang chín tháng với bao trìu mến yêu thương ấp ủ Thiên Chúa chuyển trao qua mẹ cha. Mở mắt chào đời, mối ân tình bao bọc vây quanh còn lớn hơn nữa; Bàn tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa vẫn tiếp tục nâng bước đời sống con người: cả bầu vũ trụ vạn vật như những đầy tớ siêng năng, cần mẫn phục vụ, tặng ban cho ta tinh hoa đất trời, tinh hoa con người cho ta được lớn lên thành người, thành con Thiên Chúa. Món nợ ta mang là món nợ tình nên chỉ có thể trả được bằng nghĩa yêu thương. Thiên Chúa đã muốn như thế, vì Ngài đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài có tự do, lý trí và có trái tim yêu. Nhưng tình Chúa mênh mang là thế, còn tình người cho biếu được bao nhiêu?!

Mười ngàn nén vàng – một trăm quan tiền – một so sánh tuy rất sơ tạm nhưng cũng cho thấy một lên tới trời, một ở dưới đất. Nhưng tình vốn dĩ là cho không biếu không: “Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ” (c.27). Thiên Chúa đã tha thứ tội nợ cho chúng ta; và tình yêu vốn dĩ thể hiện cao nhất ở khả năng tha thứ. Nhờ Đức Giê-su Ki-tô chúng ta được tẩy sạch muôn vàn tội lỗi: “Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.” (Ep 1,7). Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân (x. Rm 5,8). Thế có lý do nào miễn cho chúng ta xót thương người anh em? Thế nhưng có câu ‘tình đời bạc đen’. Con người vẫn cứ mê lầm lẩn quẩn trong vòng hỷ, nộ, ai, ái, ố, dục, cụ. Và người ta cứ thích lấy cái rơm trong mắt người anh em hơn cái xà trong mắt mình (x.Mt 7, 3 -4). Vì thế, chúng ta sẵn sàng tính sổ với anh em vì một món nợ nhỏ mà không hề mảy may nghĩ đến mình đã được tha một món nợ khổng lồ cách nhưng không. Tên đầy tớ trong dụ ngôn xem ra có vẻ bạc ác, phi lý; nhưng đó lại là thái độ của mỗi người chúng ta. Dụ ngôn thật thâm thúy, có tính giáo dục cao, nó giống như vở bi hài kịch; nhưng thực tế trong cuộc sống, mấy ai nhận ra được mình đóng một vai diễn chính gây phẫn uất trong đó. Chúng ta sẵn sàng vung dao khi người anh em làm chúng ta xây xát. Chúng ta sẵn sàng đạp người anh em xuống bùn đen, khi họ lỡ làm lòng tự trọng cuả chúng ta bị tổn thương…. Chúng ta thích bắt bẻ người anh em những lỗi lầm mà chính chúng ta vẫn thường khi mắc phải. Và chúng ta thích ngồi chiếc ghế thẩm phán hơn là chiếc ghế của bị cáo.

Mùa chay, mùa của kiểm điểm, sám hối ăn năn. Mỗi người chúng ta ai cũng mong mình được Thiên Chúa tha thứ tội nợ. Ngài đã tha thứ tội nợ cho chúng ta, nhưng việc chúng ta tha thứ cho anh em mình là một hành động mở rộng tấm lòng để ơn cứu rỗi của Thiên Chúa đổ vào tâm hồn chúng ta.

Tha thứ – một hành vi không dễ dàng – Chỉ khi nào có trái tim yêu đích thực người ta mới có thể tha thứ thực sự không tính toán. Hãy lặng thinh, nhìn lên chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh, tuy chịu nhục hình vẫn nói lời tha thứ cho kẻ giết mình, để xin Thiên Chúa hoán cải lòng chúng ta; xin Chúa “cất khỏi mình chúng ta quả tim chai đá và ban tặng cho chúng ta quả tim biết yêu thương” (x.Ed 36,26) để chúng ta có thể tha thứ như lời Thầy Giê-su đã dạy – tha bảy mười lần bảy, tha không giới hạn.

Lạy Chúa Giê-su, Chúa biết chúng con yếu đuối biết bao và tình thương của chúng con nghèo nàn dường nào. Nhiều khi chúng con nói tha thứ, nói rằng mình không chấp, nhưng trái tim vẫn sôi lên phẫn uất khi vết thương lòng bị khơi dậy; chúng con cảm thấy mình khó tha thứ biết bao, bởi vì cái tôi quá lớn và tinh thần hiền lành, khiêm tốn, yêu thương, bao dung, quảng đại… mà Chúa dạy thì lại quá ít ỏi. Xin Chúa thương tha thứ, xin thương đỡ nâng. Xin đổ đầy tình thương của Chúa vào trái tim con, cho con được thấm nhuần tinh thần của Chúa – yêu thương và tha thứ – để con xứng đáng với ơn tha thứ Chúa dành cho con. Amen.

============

Chủ đề 18: Chúa chữa một người phong cùi vì lòng thương anh (Mc 1,40-45)

40 Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng : “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” 41 Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo : “Tôi muốn, anh sạch đi !” 42 Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. 43 Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, 44 và bảo anh : “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” 45 Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.

Suy Niệm:

Chữa người phong cùi

Raoul Folereau, vị đại ân nhân của những người phong cùi đã ghi lại một chuyến đi của ông như sau: Ðến một nơi cách thành phố 15 cây số, chúng tôi lần theo một lối đi được chỉ trước, và sau nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào một thế giới của buồn thảm, đau khổ và thất vọng. Thật thế, tại một nơi mà không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60 người phong cùi đang sống bên nhau. Trước đây, người ta giam họ trong một trại cùi chẳng khác nào một trại tù, mọi người nhìn họ như những kẻ bị chúc dữ, hoặc tệ hơn nữa, như những con thú dữ. Không chịu nổi sự giam hãm và cách ly như thế, một số người cùi này đã trốn thoát và đến trú ẩn giữa khu rừng này. Tại đây, tình trạng của họ càng thêm tồi tệ hơn, xung quanh họ, trên đất đầy dẫy những vết tích của căn bệnh quái ác này.

Tôi đến bên một người lớn tuổi được xem như đại diện của họ và hỏi:

– Hôm nay là chiều Thứ Bảy, cửa quán ngoài phố xá đã đóng cửa rồi; thứ hai tôi sẽ trở lại và mang theo thức ăn thức uống; tôi cũng sẽ đưa một bác sĩ đến để chăm sóc cho bà con, chúng tôi sẽ cất nhà và sẽ ở lại đây với bà con khi cần, vậy bác hỏi bà con có thể chờ cho đến ngày Thứ Hai không?

Người đó đưa mắt nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, vì đã từ lâu họ không còn tin điều đó nữa; đối với họ, xem ra không còn ai đáng tin trên đời này nữa. Rồi ông khẩn khoản nói:

– Ông không thể giúp cho chúng tôi ngay được sao? Chúng tôi vừa mới có một người anh em qua đời, chúng tôi phải dùng đôi tay cùi lở này để đào xới một cái mộ chôn người anh em.

Tôi nhìn đôi bàn tay không nguyên vẹn vì bệnh tật, nay phải mang thương tích vì người đồng loại. Những con người khốn khổ đó nếu không nhìn thấy, không thể tin được là có thật.

Căn bệnh phong cùi vẫn là căn bệnh ghê sợ nhất đối với hiện tại. Người phong cùi đau đớn trên thân xác đã đành, mà còn đau khổ gấp bội phần trong tâm hồn khi cảm thấy bị bỏ rơi.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người không hay biết.

Xin Chúa tha thứ cho những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay rộng mở để san sẻ.

============

Chủ đề 19: Chúa chữa một người bại liệt được bốn người khiêng (Mc 2,1-12)

1 Vài ngày sau, Đức Giê-su trở lại thành Ca-phác-na-um. Hay tin Người ở nhà, 2 dân chúng tụ tập lại, đông đến nỗi trong nhà ngoài sân chứa không hết. Người giảng lời cho họ. 3 Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giê-su một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. 4 Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. 5 Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt : “Này con, con đã được tha tội rồi.” 6 Nhưng có mấy kinh sư đang ngồi đó, họ nghĩ thầm trong bụng rằng : 7 “Sao ông này lại dám nói như vậy ? Ông ta nói phạm thượng ! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa ?” 8 Tâm trí Đức Giê-su thấu biết ngay họ đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ : “Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy ? 9 Trong hai điều : một là bảo người bại liệt : ‘ Con đã được tha tội rồi ‘, hai là bảo : ‘ Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi ‘, điều nào dễ hơn ? 10 Vậy, để các ông biết : ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, -Đức Giê-su bảo người bại liệt,- 11 Ta truyền cho con : Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà !” 12 Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau : “Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ !”

Suy Niệm:

Chữa người bất toại

Một điểm trong phép lạ chữa người bất toại được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu không nói ngay: “Ta chữa lành cho con”, nhưng Ngài nói với người bất toại: “Con đã được tha tội rồi”. Qua đó, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Thiên Chúa, bởi vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chính những kẻ chống đối Chúa Giêsu cũng nghĩ như thế, và vì không tin Ngài là Thiên Chúa, cho nên họ nghĩ thầm rằng: “Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng”. Nhưng Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để một lần nữa chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài đọc thấu tư tưởng thầm kín của họ. Ngài bảo họ: “Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy?” Rồi Ngài nói với những kẻ không tin: “Trong hai điều: một là bảo người bất toại: “Con đã được tha tội”, hai là bảo: “Ðứng dậy, vác chõng mà đi”, điều nào dễ hơn”. Thật ra, hai điều này đều khó, và Chúa Giêsu quả quyết: “Ðể các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội, Ta truyền cho anh hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà”, lập tức người ấy đứng dậy vác chõng mà đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ để chứng minh Ngài có quyền tha tội, vì Ngài là Thiên Chúa. Như những người chống đối Chúa, ngày nay cũng có nhiều người không chấp nhận quyền tha tội của Chúa, quyền này đã được Chúa trao cho các Tông đồ, và qua các ngài cho Giáo Hội. Giáo Hội vẫn tiếp tục công việc tha tội trong Bí tích sám hối và hòa giải. Nhờ Bí tích này, tội nhân sau khi lãnh Bí tích rửa tội được ơn tha thứ và làm hòa với Thiên Chúa. Từ ít lâu nay, có một cơn khủng hoảng đối với Bí tích giải tội: nhiều người không còn lãnh nhận Bí tích giải tội, không còn quí trọng ơn tha tội, vì đã đánh mất ý thức về tội lỗi: có thể họ cần được Thiên Chúa ban cho điều này điều nọ, nhưng không thấy cần được Thiên Chúa tha cho những tội đã phạm.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta trở về với tác vụ chính của Chúa Giêsu ngay từ đầu: tác vụ tha tội, hòa giải con người với Thiên Chúa. Ước gì chúng ta luôn ý thức về tội lỗi và quí trọng ơn tha thứ qua Bí tích giải tội.

=============

Chủ đề 20: Chúa chữa người mù ở Giê-ri-khô (Mc 10,46-53)

46 Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. 47 Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng : “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !” 48 Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng : “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !” 49 Đức Giê-su đứng lại và nói : “Gọi anh ta lại đây !” Người ta gọi anh mù và bảo : “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy !” 50 Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su. 51 Người hỏi : “Anh muốn tôi làm gì cho anh ?” Anh mù đáp : “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” 52 Người nói : “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

Mù nghĩa là không thấy. Mọi sự, mọi vật, mọi loài đối với người mù đều không có nghĩa gì vì  khi bị bẩm sinh mù, người mù sẽ không hề có một khái niệm gì về sự vật, về vũ trụ và ánh sáng vv…Mù là tê liệt, là ù lì ngồi yên và nằm yên một chỗ… Mù có thể so sánh với nô lệ, bị áp bức. Tiên tri Giêrêmia đã nói ngôn sứ về  Sion, về Giêrusalem vì bất trung sẽ bị thất thủ và quả thực điều đó đã xẩy ra năm 587 trước công nguyên. Tuy nhiên ngôn sứ lại nói những điều đầy hy vọng cho tương lai của dân Chúa. Thiên Chúa sẽ cứu, sẽ giải thoát dân và ký kết với dân một giao ước mới.Dân sẽ được giải thoát và được hạnh phúc.Ngôn sứ Giêrêmia cũng loan báo thời cứu chuộc, thời Thiên Chúa cứu dân của Ngài:”kẻ đui mù, người què quặt, kẻ mang thai, người ở cữ” cũng được chữa lành, cứu thoát. Tin Mừng của thánh Marcô 10, 46-52 nói đến việc cụ thể một người mù tên Bactimê được chữa lành. Những dấu lạ điềm thiêng như mù được thấy, què đi được, điếc nghe được…là những dấu chỉ Nước Thiên Chúa và của Đấng Mêsia.

SUY NIỆM:

Chúa chữa anh Bactimê khỏi mù từ lúc bẩm sinh:

Người mù con ông Timê, tên Bactimê là một người bị mù từ bẩm sinh. Anh ta sống trong thất vọng Mọi vật, mọi sự đối với anh đều hoàn toàn u tối. Từ khi sinh ra cho đến ngày nay anh đang làm nghề ăn xin, anh chưa thấy được gì. Đó là nỗi thống khổ của anh, cũng như của bố mẹ anh. Nên, hôm đó, Chúa Giêsu cùng các môn đệ và đám đông dân chúng ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì anh Bactimê đang ngồi ăn xin bên vệ đường kêu lên với Chúa Giêsu” Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”(Mc 10, 48 ). Anh mù đã thực sự đến với Chúa Giêsu, gặp gỡ Ngài. Còn nhiều người chỉ nhìn Chúa vì tò mò, hiếu kỳ. Họ bàn tán Chúa Giêsu là người làng Nadarét; họ nhìn Chúa với ánh mắt con người, họ không gặp được Chúa. Anh mù gọi Ngài là Giêsu, Con vua Đavít, là Đấng Thiên sai, là Đấng Thiên Chúa sai đến, là Đấng mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, Đấng sẽ làm cho người mù thấy được, kẻ què đi được, vv…( Is 29, 18; 35, 5; 61, 1 ).Chúa Giêsu rất tế nhị hỏi anh mù muốn xin gì. Đây là một  cử chỉ ưu ái, lưu tâm của Chúa Giêsu đối với một con người có lòng thành tâm, thiện chí. Anh mù quả có chỗ đứng trong con tim của Chúa Giêsu. Anh mù lần này không xin tiền, xin bạc, không xin của bố thí mà anh xin được chữa lành.Lời cầu xin của anh phát xuất tự đáy lòng của một con người khiêm tốn, tin tưởng, phó thác như Chúa Giêsu đã nói sau khi chữa lành cho anh:” Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”( Mc 10, 52).

Anh mù đã tin nên được Chúa chữa lành, cho anh được thấy (Mc 10, 52 ).  Và Tin Mừng Marcô nói tiếp: Bactimê được thấy, và đi theo Chúa Giêsu trên đường Ngài đi ( Mc 10, 52 ).Chính đức tin nơi anh mù Bactimê đã giúp anh vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nỗi bất hạnh đang đè nặng trên anh . Dân chúng càng ngăn cản, càng dọa nạt anh, càng bịt miệng anh, anh càng la to cho tới khi Chúa nghe thấy và cho gọi anh lại để hỏi ước muốn của anh. Thì ra, đức tin mới làm cho con người gặp gỡ được Chúa Giêsu và được Ngài cứu thoát, chữa lành.

Chúa mang lại ánh sáng cho anh mù Bactimê và nhân loại:

Anh mù được Chúa mang lại ánh sáng, đổi đời cho anh, đưa anh vào một cuộc sống mới, cuộc đời mới mà chỉ có anh trải qua thương đau, mù lòa, tối tăm mới cảm nghiệm được ánh sáng quí trọng như thế nào ? Aùnh sáng nhận được từ Đức Giêsu Kitô cứu độ, Bactimê đã thấy tất cả, mọi sự đều bừng sáng, đều thức dậy trước mắt anh và nói một cách nào đó, anh đã được sinh ra trong một cuộc sống mới, cuộc sống hoàn toàn có ý nghĩa. Tội lỗi đã vùi dập loài người. Sự dữ đã làm lu mờ đời sống của con người.Chính vì để qui tụ, đổi mới, tái sinh và cứu độ mà Chúa Giêsu đã được Chúa Cha sai tới trần gian.Nên, tất cả những ai đặt lòng tin vào Chúa Giêsu đều có thể được giải thoát, được cứu rỗi. Nhân loại nhờ tin vào Chúa Giêsu, Ngài đã đưa con người vào thế giới mới của Ngài, một thế giới loài người đã được đổi mới bằng ánh sáng đức tin và ân sủng của Đức Giêsu Kitô. Đức tin là một một khám phá, một sự đổi mới nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, là một cái nhìn mới của một con người đã được tái sinh, chan hòa ánh sáng như TV 36 viết:”…và nhờ ánh sáng của Chúa, chúng tôi nhìn thấy ánh sáng” và ” Ơn cứu chuộc chứa chan nơi Người”. Thế giới ấy là thế giới mới của Chúa Giêsu vì nơi Chúa ơn cứu độ chứa chan, ơn cứu rỗi lan tỏa ra mọi người khi tất cả đặt niềm tin nơi Chúa. Anh Bactimê được Chúa chữa lành, liền theo Đức Giêsu( Mc 10, 52 ).Được sáng mắt, đi theo Chúa Giêsu đối với Bactimê là một điều thường, là một sự tự nhiên. Nhân loại, người Kitô hữu, môn đệ không thể nào không bám sát, không theo Chúa Giêsu. Theo Chúa Giêsu, người tín hữu càng sáng hơn, càng thấy tỏ tường hơn con đường họ phải đi để làm môn đệ Chúa. Trong con đường theo Chúa Giêsu, người tín hữu không được đứng nhìn lơ đễnh, bàng quang: họ phải dứt khóat chọn hoặc đi theo Chúa hoặc từ khước Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn để kiên trì chờ đợi gặp Chúa và xin Chúa dủ thương chữa lành:” Lạy Chúa, xin thương xót con”.

(Sưu tầm từ internet)