Thánh Jacintô Castaneda Gia, Linh mục dòng Đaminh (1743-1773)

Ngày 07 Tháng 11

Từ lời kinh tạ ơn của bà mẹ

Cuối năm 1773, tin tức linh mục Castaneda tử đạo đã về tới quê hương ngài ở Tây Ban Nha. em trai thánh nhân là Clêmentê biết trước tiên, đã hết sức thận trọng khi báo tin cho mẫu thân. Bà sốt sửng hỏi: “Tại sao Jacintô của mẹ lại chết. Anh ấy chết bệnh hay bị giết?”. Clêmentê chợt nghĩ anh mình mới 30 tuổi, sợ mẹ buồn lên anh hỏi lại: “Vậy mẹ muốn anh ấy chết cách nào?. Bà đáp: “Mẹ mong vì đức tin mà Jacintô con mẹ bị giết”. Clêmentê liền nói: “Thưa mẹ, chính vì đức tin, người ta đã chém đầu anh ấy”. Ngay chiều ngày hôm đó, bà mẹ đến nhà thờ dòng Đaminh để cùng các tu sĩ hát lên lời tạ ơn TE DEUM.

 

Dấn thân và gian khổ

Jacintô Castanede sinh ngày 13.10.1743 tại Jativa, thuộc giáo phận Valencia, Tây Ban Nha. Cậu được trời phú cho một khuôn mặt xinh đẹp đặc biệt. Nhiều người so sánh cậu đẹp như thiên thần trong các tranh của nhà danh họa Tây Ban Nha Murille (1862). Hơn thế nữa, chàng thanh niên tuấn tú ấy lại có một tâm hồn cao quý, đã sớm quyết tâm dâng hiến cuộc đời phục vụ Thiên Chúa và truyền giảng Tin Mừng cho thế giới. Để thực hiện lý tưởng cao cả đó, cậu đã gia nhập dòng Đaminh tại tu viên thánh Philipphê ở Valencia.

Lòng nhiệt thành truyền giáo đã đưa thày Jacintô đến Phi Luật Tân năm 1762. Sau khi thụ phong linh mục, cha tình nguyện đi loan báo Tin Mừng ở Trung Hoa. Dầu Trung Hoa đang cơn cấm cách, cha đã đến nơi vào tháng 04.1766 cùng với cha Lavilla giảng đạo ở Phúc Kiến. Sau ba năm nhiệt thành phục vụ, ngày 18.07.1769 hai vị linh mục bị bắt giữ 15 ngày ở Phú An, rồi gần hai tháng với 14 cuộc thẩm vấn ở Phúc Kiến, cuối cùng các ngài bị trục xuất về Macao.

Không nản chí và cũng không chùn bước, tại Macao, gặp hai cha dòng khác từ Manila tới để đi Việt Nam, cha Castaneda và Lavilla liền xin bề trên cho phép đồng hành sang Việt Nam. Sau đó, bốn vị cùng đáp tàu đến Bắc Việt ngày 23.02.1770. Cha Gia ở lại Trung Linh học tiếng Việt và phong tục Việt trong sáu tháng, rồi được cử đi truyền giáo ở khu Lai Ổn, Kẻ Diền, phủ Thái Ninh. Cha tự thuật như sau: “Hiện nay với sự cộng tác của hai linh mục bản xứ. Quả thật, tôi không đủ sức cáng đáng hết những việc phải làm”.

Vì 60 làng có đạo mà cha Gia phụ trách ở rải rác cách xa nhau, nên cha phải liên tục di chuyển hết làng này đến làng khác, và chẳng bao lâu, sức khỏe cha giảm sút mau lẹ. Dù vậy, cha vẫn cố gắng đến thăm từng họ đạo. Giáo hữu rất yêu mến cha, nhưng luơng dân cố lập mưu bắt cha để được tiền chuộc hoặc tiền thưởng. Do đó, nhiều lần cha phải đổi chỗ để thoát khỏi những cặp mắt đang rình rập.

Ba năm truyền giáo đã trôi qua, ngày 12.07.1773, sau khi ban bí tích cho một bệnh nhân ở Lai Ổn, cha Gia và thày Tân về Kẻ Diền bị lọt vào vòng vây của quan phủ Thần Khê. Để đánh lạc hướng, thày Tân nhanh trí chèo thuyền quan bên kia sông Luộc, rồi lập tức quay lại cùng cha trốn vào ở làng Gia Đạo. Không ngờ người gia chủ đi báo với quan để lãnh thưởng nên cả hai đều bị bắt.

Qua trung gian chánh tổng Xích Bích, quan đòi 3 ngàn tiền chuộc. Cha đáp: “Quan muốn tha thì tha chứ tôi không có tiền chuộc. Tôi sẵn sàng chịu mọi gian khổ kể cả cái chết”. Sau nhiều ngày hành hạ cha đủ cách, quan phủ không còn hy vọng đòi tiền chuộc nữa, mới cho giải nộp lên quan Trấn thủ Sơn Nam ở Phố Hiến (Hưng Yên), và cha Gia bị tống giam vào ngục.

Giữa tháng 10.1773, cha hân hoan gặp một tù nhân mới, linh mục Vinh Sơn Liêm bị bắt ngày 02.10 tại Lương Đống, cũng bị Chánh tổng Xích Bích giam giữ 12 ngày trước khi giải lên. Thật là niềm vui lớn, hai anh em cùng dòng từ nay sẽ đồng hành với nhau trong ngục tù cũng như trong vinh quang tử đạo. Ngày 20.10, quan Trấn truyền đóng gông hai cha có ghi chữ “Hoa Lang Đạo Sư”(1), rồi trao cho quan phủ Thần Khê áp giải lên Thăng Long.

Suy tôn Thánh Giá trong phủ chúa

Tại kinh thành Thăng Long, hai linh mục dòng Thuyết Giáo có nhiều cơ hội trao đổi về giáo lý với các quan. Cuộc trang luận nổi tiếng nhất được mệnh danh là “Hội Đồng Tứ Giáo”, giữa đại diện bốn tôn giáo: Khổng giáo, Lão Giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo. Ba đề tài được đưa ra: Người ta bởi đâu mà có ? Sống ở đời này để làm gì ? Và chết rồi đi đâu ? Cha Gia với kinh nghiệm giảng đạo ở Phú Kiến, đã thành thạo trưng dẫn những điển tích, châm ngôn của Trung Hoa, khiến viên quan tổ chức, chú của Chúa Trịnh Sâm, phải hết sức khâm phục.

Chính Đô Tĩnh Vương Trịnh Sâm cũng thích hỏi hai cha nhiều chi tiết về đạo. Một hôm, ông yêu cầu cha Gia cử hành vài nghi lễ cho các quan xem, cha liền mặc áo lễ, cắt nghĩa lễ phục và trình bày giáo lý cho các quan. Sau đó, cha đặt tượng Thánh Giá trước ngài Tĩnh Đô Vương, quỳ xuống hôn kính sốt sắng và đọc kinh bằng tiếng Việt các kinh Ăn Năn Tội, kinh tin Kính, kinh Lạy Cha. Tiếp đó, cha nâng cao ảnh Đức Mẹ và đọc kinh Lạy Nữ Vương. Cử chỉ và lời kinh của cha gây nhiều xúc động cho những người hiện diện. Nhưng số phận của cha đã được định đoạt trong chiếu chỉ của phủ chúa rồi. Có điều bản án đến sớm hơn vì bà mẹ chúa Trịnh Sâm.

Khi bà Thái Tôn nổi giận

Nguyên do bà mẹ của Tĩnh Đô Vương rất sùng đạo Phật. Khi nghe tin có hai linh mục trẻ tuổi, thông thái lại điển trai và ăn nói văn hoa, liền yêu cầu được gặp mặt và nói chuyện. Thế là hai vị được dẫn đến trước mặt Thái Tôn. Rồi một hồi trao đổi thân mật, bỗng nhiên bà hỏi: “Nếu các thày nói chỉ có đạo các thày là đạo thật, vậy những người không theo đạo, chết đi về đâu ?”. Cha Liêm điềm nhiên trả lời: “Bẩm bà, sa hỏa ngục ạ !”(2). Câu trả lời của vị linh mục làm Thái Tôn nổi giận, không thèm nghe giải thích thêm, đòi xử tử hai ông đạo sư ngay lập tức. Từ đó, hai cha bị cách ly, không cho gặp ai nữa. Ngày 04.11.1773, sau một buổi nghị án, chúa Trịnh Sâm tuyên án trảm quyết cả hai vị.

Ngày 07.11.1773, quan quân điệu hai vị tông đồ đến pháp trường Đồng Mơ thi hành bản án. Trên đường, hai vị cùng thầm thĩ cầu nguyện xin Chúa thứ tha mọi lỗi lầm, đọc kinh Tin Kính và hát “Salve Regina” (Kinh Lạy Nữ Vương). Hai chứng nhân Chúa Kitô cùng lãnh triều thiên tử đạo. Cha Jacintô khi ấy mới 30 tuổi, với sáu năm truyền giáo ở Trung Hoa và ViệtNam. Nhưng máu ngài đổ ra đã vun tưới cho hạt giống Tin Mừng âm thầm trổ bông.

Thi hài hai vị tử đạo được an táng trọng thể ở nhà thờ Trung Linh. Ngày 13.11.1775, trong diễn văn trước Hồng Y đoàn, Đức Giáo Hoàng Piô VI đã nhắc đến chiến thắng vinh quang của hai vị.

Ngày 20.05.1906, Đức Giáo Hoàng Piô X đã suy tôn hai chứng nhân anh hùng lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.

Lm. Đào Trung Hiệu, OP